NGHỊ ĐỊNH
CỦA CHÍNH PHỦ SỐ
113/2008/NĐ-CP NGÀY 28 THÁNG 10 NĂM 2008
BAN HÀNH QUY CHẾ TRẠI GIAM
CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ
ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Pháp lệnh Thị hành án
phạt tù ngày 08 tháng 3 năm 1993 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của
Pháp lệnh Thị hành án phạt tù ngày 19 tháng 10 năm 2007;
Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ
Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng,
NGHỊ ĐỊNH:
Điều 1. Ban hành kèm theo Nghị định
này Quy chế trại giam.
Điều 2. Nghị định này được áp dụng
đối với phạm nhân đang chấp hành hình phạt tù tại các trại giam và trại tạm
giam.
Điều 3. Nghị định này có hiệu lực thị
hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo và thay thế Nghị định số 60-CP ngày
16 tháng 9 năm 1993 của Chính phủ ban hành Quy chế trại giam, Nghị định số
60/2001/NĐ-CP ngày 04 tháng 9 năm 2001 về việc sửa đổi Điều 3 Quy chế trại giam
ban hành kèm theo Nghị định số 60-CP ngày 16 tháng 9 năm 1 993.
Điều 4. Bộ trưởng các Bộ: Công an,
Quốc phòng chịu trách nhiệm hướng dẫn, tổ chức và kiểm tra việc thị hành Nghị
định này.
Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ
trưởng cơ quan thuộc Chính phủ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thị hành Nghị định này./.
TM. CHÍNH PHỦ
THỦ TƯỚNG
Nguyễn Tấn Dũng
QUY CHẾ
Trại giam
(Ban hành kèm theo Nghị định
số: 13/2008/NĐ-CP
ngày 28 tháng 10 năm 2008 của
Chính phủ)
Chương I
TỔ CHỨC TRẠI GIAM
Điều 1. Trại giam là nơi chấp hành
hình phạt của người bị kết án tù có thời hạn và tù chung thân. Người đang chấp
hành hình phạt tù gọi là phạm chân.
Điều 2. Bộ Công an, Bộ Quốc phòng
quản lý trực tiếp các trại giam. Các hạng mục công trình, hệ thống kiểm soát an
ninh trong trại giam được xây dựng, lắp đặt theo quy định và mẫu thịết kế thống
nhất của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng. Việc thành lập, giải thể, sáp nhập các trại
giam và các phân trại giam trong trại giam do Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng
Bộ Quốc phòng quyết định.
Điều 3. Quy mô giam giữ phạm nhân ở
mỗi trại giam thuộc Bộ Công an quản lý từ 2.000 phạm nhân đến 5.000 phạm nhân
(trường hợp đặc biệt do Bộ trưởng Bộ Công an quyết định). Mỗi trại giam được
thành lập một số phân trại giam. Mỗi phân trại giam quản lý từ 500 đến 1.000
phạm nhân. Quy mô giam giữ phạm nhân ở mỗi trại giam thuộc Bộ Quốc phòng quản
lý từ 100 đến 500 phạm nhân.
Điều 4. Tổ chức bộ máy quản lý của
trại giam gồm có Giám thị, các Phó giám thị, Trưởng phân trại, Phó trưởng phân
trại, Đội trưởng, Phó đội trưởng, sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ
quan chuyên môn kỹ thuật, sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ vũ trang bảo vệ và công
nhân viên. Chức năng, nhiệm vụ của Phó Giám thị, Trưởng phân trại, Phó trưởng
phân trại, Đội trưởng, Phó đội trưởng, sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan,
hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật, sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ vũ trang bảo vệ
và công nhân viên do Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định.
Điều 5.
1. Giám thị trại giam có nhiệm vụ, quyền hạn sau
đây:
a) Chỉ huy cán bộ, chiến sĩ thuộc quyền và chịu
trách nhiệm về việc quản lý, giam giữ, giáo dục phạm nhân ở trại giam theo quy
định của pháp luật;
b) Quyết định những vấn đề thuộc hoạt động của
trại giam trong khuôn khổ pháp luật hoặc do cấp trên giao cho và chịu trách
nhiệm cá nhân về quyết định đó;
c) Thực hiện các quyền và nghiã vụ khác được pháp
luật quy định.
2. Phó giám thị làm nhiệm vụ theo sự phân công
của Giám thị.
Điều 6.
1. Giám thị, Phó giám thị, Trưởng phân trại, Phó
trưởng phân trại, Đội trưởng, Phó đội trưởng, sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ
quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật, sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ vũ trang
bảo vệ và công nhân viên phải là những người có phẩm chất chính trị tốt, trung
thành với Đảng, với chế độ, có ý thức tổ chức, kỷ luật, nắm vững chính sách,
hiểu biết, tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật.
2. Giám thị, Phó gián thị, Trưởng phân trại, Đội
trưởng phải là người đã tốt nghiệp đại học cảnh sát hoặc đại học an ninh hoặc
học đại học luật trở lên hoặc có trình độ tương đương.
Phó trưởng phân trại, Phó đội trưởng, sĩ quan, hạ
sĩ quan nghiệp vụ và sĩ quan vũ trang bảo vệ phải là người đã tốt nghiệp trung
học cảnh sát, trung học an ninh trở lên hoặc có trình độ tương đương.
Sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật phải là
người có trình độ trung học trở lên về lĩnh vực chuyên môn mà mình đảm nhận.
Hạ sĩ quan, chiến sĩ vũ trang bảo vệ phải là
những người đã được huấn luyện về nghiệp vụ bảo vệ trại giam.
Công nhân viên phải là người được đào tạo, nắm
vững kiến thức về lĩnh vực chuyên môn mà mình đảm nhận.
Chương II
CHẾ ĐỘ QUẢN LÝ, GIAM GIỮ, DẪN
GIẢI PHẠM NHÂN
Điều 7.
1. Căn cứ tính chất tội phạm, mức án của phạm
nhân, trại giam tổ chức giam giữ như sau:
a) Khu giam giữ đối với người bị kết án tù trên
15 năm, tù chung thân, người bị kết án tù thuộc loại tái phạm nguy hiểm;
b) Khu giam giữ đối với người bị kết án tù từ 15
năm trở xuống.
2. Phạm nhân là nữ, người chưa thành niên được
giam giữ riêng.
Điều 8.
1. Khi đưa người bị kết án tù vào trại giam để
chấp hành hình phạt, phải có đủ các giấy tờ sau:
a) Bản sao bản án đã có hiệu lực pháp luật;
trường hợp xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm thì có bản án sơ thẩm kèm
theo;
b) Quyết định thị hành án;
c) Danh bản xác định căn cước của người bị kết án
tù;
d) Bản sao hộ chiếu hoặc giấy tờ khác chứng minh
quốc tịch đối với người bị kết án tù là người nước ngoài;
đ) Phiếu khám sức khoẻ và các tài liệu khác liên
quan đến sức khoẻ (nếu có) của người bị kết án;
e) Quyết định của cơ quan quản lý trại giam đưa
người bị kết án tù vào trại giam;
g) Những tài liệu khác có liên quan đến người bị
kết án tù (nếu có);
h) Bản nhận xét thái độ chấp hành nội quy, quy
chế trại tạm giam; nếu là phạm nhân chuyển trại giam hoặc phạm nhân đã chấp
hành án ở trại tạm giam từ một tháng trở lên chuyển đến trại giam phải có nhận
xét và kết quả xếp loại thị đua chấp hành hình phạt tù.
2. Đối với con của người bị kết án tù theo bố
hoặc mẹ vào trại giam phải có giấy khai sinh. Trường hợp chưa có giấy khai sinh
phải có giấy tờ sau: Giấy chứng sinh do cơ sở y tế nơi trẻ em sinh ra cấp; nếu
trẻ em sinh ra ngoài cơ sở y tế thì Giấy chứng sinh được thay bằng văn bản xác
nhận của người làm chứng; trường hợp không có các giấy tờ trên thì phải có báo
cáo bằng văn bản của trại tạm giam chuyển phạm nhân đến kèm theo giấy cam đoan
của bố hoặc mẹ về việc sinh là có thực. Giám thị trại giam có trách nhiệm làm
thủ tục đăng ký khai sinh cho trẻ em đó theo quy định của pháp luật về đăng ký,
quản lý hộ tịch. Trường hợp phạm nhân sinh con trong thời gian chấp hành hình
phạt tù, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi trại giam đóng có trách nhiệm làm giấy khai
sinh cho con của phạm nhân đó theo đề nghị của Giám thị trại giam.
3. Ngay sau khi vào trại giam, y tế của trại giam
phải khám sức khoẻ cho phạm nhân, xác định tình trạng sức khoẻ, bệnh tật của họ
để lập hồ sơ sức khoẻ phục vụ cho việc giam giữ, lao động, học tập và phòng
chữa bệnh.
4. Căn cứ vào tính chất tội phạm, mức án, độ
tuổi, giới tính, sức khoẻ và các đặc điểm nhân thân khác của phạm nhân, Giám
thị trại giam quyết định việc phân loại và tổ chức giam giữ phạm nhân theo loại
theo quy định của Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Đối với phạm
nhân thường xuyên vi phạm nội quy, quy chế trại giam phải giam riêng.
Điều 9. Việc trích xuất phạm nhân ra
khỏi trại giam phục vụ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử hoặc trong những
trường hợp đặc biệt khác chỉ được thực hiện theo lệnh trích xuất của Cục trưởng
Cục Quản lý trại giam Bộ Công an hoặc Cục trưởng Cục Điều tra hình sự Bộ Quốc
Phòng.
Lệnh trích xuất phạm nhân phải ghi rõ mục đích và
thời hạn trích xuất, cơ quan nhận phạm nhân trích xuất chịu trách nhiệm dẫn
giải và quản lý phạm nhân đó trong toàn bộ thời gian trích xuất. Hết thời hạn
trích xuất, cơ quan nhận phạm nhân trích xuất phải gửi thông báo cho Cục Quản
lý trại giam Bộ Công an hoặc Cục Điều tra Hình sự Bộ Quốc phòng để ra quyết
định đưa phạm nhân vào trại giam chấp hành án; nếu có nhu cầu tiếp tục trích
xuất thì đề nghị gia hạn trích xuất. Thời hạn trích xuất không được kéo dài hơn
thời hạn chấp hành hình phạt tù còn lại. Trong thời hạn trích xuất, nếu người
bị trích xuất hết thời hạn chấp hành hình phạt tù thì Giám thị trại tạm giam
làm thủ tục cấp giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt tù cho phạm nhân.
Trường hợp trích xuất để điều tra, truy tố xét xử theo quyết định huỷ bản án
của Toà án có thẩm quyền thì lệnh trích xuất không ghi thời hạn. Mọi trường hợp
trích xuất đều phải lập biên bản giao, nhận phạm nhân và hồ sơ của phạm nhân đó
kèm theo.
Thời gian trích xuất phạm nhân được tính vào thời
hạn chấp hành hình phạt tù.
Điều 10. Trại giam phải được bảo vệ
nghiêm ngặt và an toàn; các buồng giam phải được xây dựng chắc chắn, có đủ ánh
sáng, bảo đảm vệ sinh môi trường. Lực lượng vũ trang bảo vệ phải tổ chức tuần
tra, canh gác 24/24 giờ.
Tất cả phạm nhân đều phải ở trong buông giam
trong thời gian quy định, khi ra khỏi buồng giam phải có lệnh của Giám thị trại
giam.
Điều 11. Trước khi phạm nhân vào buồng
giam hoặc sau khi mở cửa buồng giam cho phạm nhân ra ngoài, sĩ quan, hạ sĩ
quan, chiến sĩ được giao trách nhiệm phải điểm danh, kiểm điện. Cán bộ, nhân
viên trại giam không có nhiệm vụ và mọi người khác nếu không được phép của Giám
thị trại giam không được vào khu vực buồng giam, không được tiếp xúc với phạm
nhân.
Điều 12.
1. Phạm nhân chỉ được đưa vào buồng giam những đồ
dùng cần thịết cho cá nhân theo quy định của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng. Nếu có
tư trang chưa dùng đến phải gửi lưu ký của trại giam.
2. Phạm nhân không được sử dụng tiền mặt trong
trại giam. Bộ Công an, Bộ Quốc phòng quy định cụ thể việc cho phạm nhân sử dụng
sổ hoặc phiếu thay tiền mặt.
3. Nghiêm cấm phạm nhân đưa vào trại giam những
vật thuộc danh mục cấm. Danh mục đồ vật cấm phạm nhân đem vào trại giam do Bộ
trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định. Định kỳ hoặc đột xuất,
Giám thị trại giam tổ chức kiểm tra, kiểm soát thu giữ những vật thuộc danh mục
cấm và xử lý theo quy định của Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Điều 13. Giám thị trại giam căn cứ vào
số lượng phạm nhân, mức án, loại tội, đặc điểm nhân thân của phạm nhân và tính
chất của từng loại lao động để bố trí lực lượng quản lý, canh gác và dẫn giải
phạm nhân.
Khi cho phạm nhân đi chữa bệnh, điều trị tại bệnh
viện ngoài phạm vi trại giam, Giám thị trại giam phải bố trí lực lượng dẫn
giải, canh gác đảm bảo an toàn, chống trốn.
Điều 14.
1. Đúng ngày hết thời hạn chấp hành hình phạt tù,
người chấp hành xong hình phạt tù phải được trả tự do.
Giám thị trại giam ký và cấp giấy chứng nhận đã
chấp hành xong hình phạt tù và giới thiệu họ về Ủy ban nhân dân xã, phường, thị
trấn, đơn vị nơi họ cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi họ làm việc; đồng thời
phải sao gửi giấy chứng nhận đã chấp hành xong hình phạt tù cho cơ quan quản lý
trại giam, Toà án đã ra quyết định thị hành án và cơ quan thi hành án dân sự
cùng cấp với Toà án đã ra quyết định thi hành án (trong trường hợp người đó
phải chấp hành hình phạt tiền, nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định của Toà
án về hình sự); cấp tiền tàu xe, tiền ăn trong thời gian đi đường và một bộ
quần áo thường (nếu người chấp hành xong hình phạt tù không có quần áo riêng
mang theo) để họ trở về nơi cư trú hoặc nơi làm việc.
2. Người chấp hành xong hình phạt tù được trả lại
đầy đủ những đồ vật, tiền đã gửi lưu ký tại trại giam và tiền thưởng lao động
trong thời gian chấp hành án (nếu có).
3. Hai tháng trước khi phạm nhân hết hạn chấp
hành hình phạt tù, Giám thị trại giam thông báo trước bằng văn bản về kết quá
thi hành án và những thông tin cần thiết khác về phạm nhân cho chính quyền địa
phương hoặc cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi phạm nhân trở về sinh sống để có điều
kiện sắp xếp, tạo lập cuộc sống bình thường cho họ. Đối với phạm nhân là người
nước ngoài, Giám thị trại giam phải gửi thông báo các nội dung nói trên bằng
văn bản cho cơ quan lãnh sự của Bộ Ngoại giao Việt Nam để thông báo cho cơ quan đại
diện của nước mà phạm nhân mang quốc tịch.
Trường hợp người chấp hành xong hình phạt tù không
rõ quê quán, không còn người thân thích hoặc cơ quan, đơn vị cũ không tiếp nhận
và bản thân họ cũng không có chỗ ở khác thì Giám thị liên hệ với chính quyền
địa phương, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội... hoặc trại có thể tiếp nhận họ
sinh sống và lao động theo nguyện vọng.
Người nước ngoài đã chấp hành xong hình phạt tù
được lưu trú tại cơ sở lưu trú do Bộ Công an, Bộ Quốc phòng quản lý trong thời
gian làm thủ tục xuất cảnh. Bộ Công an, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập,
giải thể các cơ sở lưu trú. Kinh phí xây dựng các cơ sở lưu trú và kinh phi ăn,
ở, sinh hoạt cho người nước ngoài đã chấp hành xong hình phạt tù do ngân sách
nhà nước cấp.
Chương III
CHẾ ĐỘ ĂN, MẶC, Ở, SINH HOẠT
VÀ CHỮA BỆNH CỦA PHẠM NHÂN
Điều 15. Phạm nhân được ở theo buồng
tập thể, trừ phạm nhân đang bị phạt giam ở buồng kỷ luật, phạm nhân đang phải
giam riêng theo quy định tại khoản 4 Điều 8 Quy chế này. Phạm nhân có dấu hiệu
bị bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hành vi hoặc một
số bệnh truyền nhiễm khác được giam tại phòng cách ly.
Chỗ nằm của mỗi phạm nhân tối thiểu là 2m2, có bệ gạch men, ván sàn hoặc giường. Đối với phạm nhân có con ở
cùng được bố trí chỗ nằm rộng tối thiểu là 3m2.
Điều 16.
1. Tiêu chuẩn định lượng ăn của một phạm nhân
trong một tháng gồm:
Gạo thường 17 kg; thịt 0,7 kg, cá 0,8 kg; đường
loại trung bình 0,5 kg; muối 1 kg; rau xanh 15 kg; nước mắm 0,75 lít; bột ngọt
0,1 kg; chất đốt tương đương 15 kg củi hoặc 17 kg than. Định lượng này do Nhà
nước cấp và quy ra tiền theo thời giá thị trường ở địa phương nơi trại giam
đóng.
Đối với phạm nhân lao động nặng nhọc, độc hại
theo danh mục quy định của pháp luật, định lượng ăn trong tháng có thể được
tăng thêm 15% so với tiêu chuẩn định lượng nêu trên.
Ngày lễ, ngày Tết (theo quy định của Nhà nước)
phạm nhân được ăn thêm, nhưng mức ăn (bao gồm cả ăn thêm) không quá 5 lần tiêu
chuẩn ăn ngày thường.
Giám thị trại giam có thể quyết định hoán đổi
định lượng ăn nêu trên cho phù hợp với thực tế để bảo đảm phạm nhân được ăn hết
tiêu chuẩn.
2. Phạm nhân được ăn theo tiêu chuẩn, uống nước
đảm bảo vệ sinh, được sử dụng quà của gia đình và tiền được thưởng trong lao
động để ăn thêm, nhưng không được quá 3 lần định lượng trung bình hàng tháng mà
Nhà nước quy định cho mỗi phạm nhân, cấm phạm nhân uống rượu, bia và sử dụng
các chất kích thích khác. Việc nấu ăn cho phạm nhân do phạm nhân đảm nhiệm dưới
sự giám sát, kiểm tra của cán bộ trại giam.
Trẻ em là con phạm nhân ở cùng bố hoặc mẹ trong
trại giam được hưởng mức tiền ăn như bố, mẹ. Ngoài ra, các ngày 1/6, Tết trung
thu còn được chi ăn thêm theo mức ăn gấp 2 lần ngày thường. Giám thị trại giam
quyết định chế độ ăn cho phù hợp với nhu cầu dinh dưỡng của các trẻ em đó.
3. Mỗi phân trại giam được tổ chức một bếp ăn tập
thể và được cấp các dụng cụ cần thiết cho việc nấu ăn, đun nước uống và chia đồ
ăn cho phạm nhân theo khẩu phần tiêu chuẩn. Dụng cụ cấp dưỡng dùng cho 100 phạm
nhân 1 bếp (dùng trong 5 năm) gồm 1 tủ đựng thức ăn có lưới che kín, 3 chảo to,
1 cháo nhỏ, 1 nồi to, 1 bát ăn cơm/1 phạm nhân; dùng trong 1 năm gồm các loại
dao, thớt, rổ, giá, chậu rửa bát v.v... Dụng cụ cấp dưỡng dùng cho 6 phạm nhân
1 mâm (dùng trong 5 năm) gồm 1 lồng bàn, 1 xoong đựng cơm, 1 xoong đựng canh, 2
đĩa đựng thức ăn, 1 bát đựng nước chấm, 1 môi múc cơm canh hoặc dụng cụ cấp dưỡng
dùng cho một phạm nhân ăn riêng theo suất (dùng trong 2 năm) gồm 1 hộp 3 ngăn
bằng nhựa chuyên dừng đựng đồ ăn, 1 thìa ăn cơm (bằng nhựa).
Điều 17. Mỗi năm, phạm nhân được phát
2 bộ quần áo dài bằng vải thường theo màu thống nhất, 2 bộ quần áo lót, 2 khăn
mặt, 1 chiếc chiếu, 2 đôi dép, 1 mũ lá hoặc nón lá. Mỗi tháng phạm nhân được
cấp 0,3 kg xà phòng giặt (phạm nhân nữ được cấp thêm những đồ dùng cần thiết
cho vệ sinh của nữ tương đương 1,5 kg gạo), 4 năm được cấp 1 màn, 1 chăn. Đối
với phạm nhân ở các trại giam từ Đà Nẵng trở vào được phát chăn sợi; các trại
giam từ Thừa Thiên Huế trở ra được phát chăn bông nhưng không quá 2 kg và 1 áo
ấm dùng trong 5 năm;
Căn cứ vào điều kiện, môi trường và công việc cụ
thể, khi lao động phạm nhân được phát 2 bộ quần áo bảo hộ/1 năm và những phương
tiện bảo hộ lao động cần thịết.
Mẫu, màu quần áo và phương tiện bảo hộ lao động
do Bộ Công an, Bộ quốc phòng quy địch.
Trẻ em là con phạm nhân ở cùng bố hoặc mẹ trong
trại giam mỗi năm được phát 2 bộ quần áo bằng vải thường, 2 khăn mặt, 2 kg xà
phòng, 3 năm được phát 1 màn, 1 chăn phù hợp với lứa tuổi. Đối với các trường
hợp ở các trại giam từ và Đà Nẵng trở vào được phát chăn sợi, ở các trại giam
từ Thừa thiên Huế trở ra được phát chăn bông nhưng không quá 2 kg và 1 bộ quần
áo ấm dùng trong 1 năm. Trường hợp nữ phạm nhân sinh con trong trại giam được
phát 7 m vải thường làm tã lót.
Điều 18. Phạm nhân được hoạt động thể
dục, thể thao, văn hoá, văn nghệ phù hợp với quy định của trại giam.
Mỗi phân trại được thành lập thư viện, khu vui
chơi, sân thể thao. Hàng ngày, cứ 30 phạm nhân được phát 1 tờ báo Nhân Dân.
Mỗi phân trại được trang bị 1 hệ thống truyền
thanh, mỗi buồng giam tập thể được trang bị 1 máy vô tuyến truyền hình màu 21
inch trở lên.
Phạm nhân được đọc sách, báo, nghe Đài Tiếng nói
Việt Nam,
đài địa phương, đài truyền thanh nội bộ của trại, xem truyền hình theo quy định
của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng.
Điều 19.
1. Đối với phạm nhân nghi mắc bệnh tâm thần hoặc
bị bệnh khác tới mức mất khả năng nhận thức hoặc mất khả năng điều khiển hành
vi của mình, Giám thị trại giam đề nghị Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh,
Chánh án Toà án quân sự quân khu nơi người bị kết án chấp hành hình phạt tù
trưng cầu giám định pháp y. Sau khi Hội đồng giám định pháp y kết luận người đó
mắc bệnh tâm thần hoặc bị bệnh khác tới mức mất khả năng nhận thức hoặc điều
khiển hành vi của mình, Giám thị trại giam đề nghị Chánh án Toà án nhân dân cấp
tỉnh, Chánh án Toà án quân sự quân khu nơi người bị kết án chấp hành hình phạt
tù ra quyết định đưa người đó vào cơ sở chuyên khoa y tế để bắt buộc chữa bệnh.
Thời gian bắt buộc chữa bệnh được tính vào thời hạn chấp hành hình phạt tù.
2. Phạm nhân ốm đau được khám và điều trị tại
bệnh xá của trại giam. Chế độ ăn, cấp phát thuốc, bồi dưỡng do y tế của trại
giam chỉ định theo bệnh lý. Tiền thuốc chữa bệnh tương đương 2 kg gạo/1 người/1
tháng. Trường hợp phạm nhân bị bệnh nặng vượt quá khả năng điều trị của bệnh xá
của trại giam, Giám thị quyết định chuyển đến các bệnh viện của Nhà nước để
điều trị, kinh phí chữa bệnh do trại giam thanh toán với bệnh viện. Giám thị
trại giam phối hợp với trung tâm y tế hoặc bệnh viện gần trại giam xây dựng một
số phòng trong khu vực của trung tâm y tế hoặc bệnh viện dành điều trị cho bệnh
nhân là phạm nhân. Việc xây dựng các phòng chữa bệnh nói trên và quản lý phạm
nhân đến chữa bệnh do trại giam chịu trách nhiệm. Kinh phí chữa bệnh và xây
dựng các phòng chữa bệnh do ngân sách nhà nước cấp. Đối với phạm nhân bị nhiễm
HIV/AIDS, việc chăm sóc và điều trị thực hiện theo quy định hiện hành của pháp
luật. Giám thị trại giam phải thông báo những trường hợp bị bệnh nặng cho nhân
thân hoặc đại diện hợp pháp của người đó biết để phối hợp chăm sóc, điều trị
phạm nhân. Căn cứ vào kết luận phân loại sức khoẻ của y tế trại giam, Giám thị
trại giam bố trí chế độ lao động, học tập đối với từng phạm nhân cho phù hợp.
Bộ Y tế phối hợp với Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và
Bộ Tài chính quy định chế độ, kinh phí và tổ chức việc phòng, chống dịch bệnh,
khám, chữa bệnh cho phạm nhân.
Điều 20.
1. Khi có phạm nhân chết, Giám thị trại giam phải
báo ngay cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và cơ quan y tế cấp huyện hoặc Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát quân sự quân khu và bệnh viện quân khu nơi phạm
nhân chết để xác định nguyên nhân chết và lập biên bản, nếu phạm nhân chết
trong trại giam phải có chứng kiến của đại diện những phạm nhân khác và làm thủ
tục khai tử với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi trại giam đóng. Đối với phạm nhân
chết do nhiễm HIV chuyển giai đoạn AIDS thì không phải mổ tử thi, lấy mẫu xét
nghiệm. Trường hợp phạm nhân chết khi đang điều trị tại các cơ sở chữa bệnh của
Nhà nước thì cơ sở chữa bệnh có trách nhiệm thông báo và gửi giấy chứng tử cho
trại giam.
Ngay sau khi phạm nhân chết, Giám thị trại giam
phải thông báo cho thân nhân hoặc đại diện hợp pháp của người chết trước khi
làm thủ tục an táng, sau đó thông báo bằng văn bản cho Toà án đã ra quyết định
thi hành án. Trường hợp phạm nhân là người nước ngoài chết thì Giám thị trại
giam phải gửi thông báo bằng văn bản trong thời gian sơm nhất cho cơ quan lãnh
sự của Bộ Ngoại giao Việt Nam
để thông báo cho cơ quan đại diện của nước mà người đó mang quốc tịch.
Sau 24 giờ kể từ khi đã thông báo trực tiếp hoặc
bằng điện thoại, bằng điện tín hoặc bằng văn bản cho thân nhân người chết và
các cơ quan nói trên, Giám thị trại giam có trách nhiệm tổ chức an táng và tuỳ
theo điều kiện địa lý, phong tục, tập quán để quyết định hoả táng hay địa táng.
Chính quyền địa phương nơi phạm nhân chết có trách nhiệm tạo điều kiện thuận
lợi để trại giam tổ chức việc an táng cho phạm nhân.
Trường hợp phạm nhân chết hoặc bị thương do tai
nạn lao động, Giám thị trại giam phải làm các thủ tục cần thiết như trên và bảo
đảm chế độ trợ cấp theo quy định của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính,
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Trường hợp phạm nhân chấp hành hình phạt
tù chết mà trước đó đã có thời gian tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc nhưng
chưa nhận bảo hiểm xã hội một lần hoặc là người trước đó đang được hưởng lương
hưu thì thân nhân của họ được hưởng trợ cấp tuất theo quy định của pháp luật
bảo hiểm xã hội.
Nếu thân nhân hoặc đại diện hợp pháp của phạm
nhân chết có đơn đề nghị được nhận thi thể để tự an táng hoặc đề nghị được nhận
hài cốt đã được địa táng từ đủ 3 năm trở lên tại nghĩa trang thuộc quản lý của
trại giam hoặc quản lý của địa phương về tự an táng thì Giám thị trại giam có
thể xem xét, quyết định cho nhận thi thể, hài cốt, trừ trường hợp ảnh hưởng đến
an ninh trật tự và vệ sinh môi trường; gia đình phạm nhân phải chịu mọi chi phí
về việc tự an táng.
2. Kinh phí về cấp phát thuốc, khám chữa bệnh,
trợ cấp tai nạn lao động cho phạm nhân, khám nghiệm, an táng (bao gồm cả địa
táng và hoả táng) phạm nhân chết do ngân sách nhà nước cấp.
Điều 21. Phạm nhân nghiện ma tuý được
tổ chức cai nghiện tại trại giam. Kinh phí tổ chức cai nghiện do ngân sách nhà
nước cấp theo quy định hiện hành.
Chương IV
CHẾ ĐỘ LAO ĐỘNG, HỌC TẬP CỦA
PHẠM NHÂN
Điều 22.
1. Phạm nhân lao động 8 giờ trong 1 ngày, được
nghỉ các ngày lễ, Tết, chủ nhật và tổ chức học tập vào ngày thứ bảy. Thời gian
phạm nhân học văn hoá, học nghề, nghe phổ biến thời sự, chính sách, pháp luật,
học chương trình giáo dục công dân được trừ vào thời gian lao động. Trong
trường hợp đột xuất, Giám thị trại giam có thể yêu cầu phạm nhân làm thêm giờ
nhưng không được quá 2 giờ trong 1 ngày hoặc lao động trong các ngày thứ bảy,
chủ nhật nhưng không quá 8 giờ trong 1 ngày. Thời gian lao động thêm giờ hoặc
lao động trong các ngày thứ bảy, chủ nhật sẽ được nghỉ bù hoặc bồi dưỡng bằng
tiền hoặc hiện vật.
2. Giám thị trại giam tổ chức cho nữ phạm nhân và
phạm nhân là người chưa thành niên lao động phù hợp với lứa tuổi, giới tính và
sức khoẻ của họ. Không sử dụng những phạm nhân này làm những công việc nặng
nhọc, độc hại có trong danh mục cấm sử dụng lao động nữ và người chưa thành
niên. Nữ phạm nhân có thai được nghỉ trước và sau khi sinh đẻ theo quy định
chung của Nhà nước. Trong thời gian có thai và nghỉ đẻ được đảm báo tiêu chuẩn,
định lượng ăn như những phạm nhân lao động bình thường khác.
Phạm nhân có con trên 36 tháng tuổi phải gửi con
về gia đình hoặc người thân nuôi. Trường hợp họ không có gia đình, người thân
thì Giám thị trại giam liên hệ gửi con của phạm nhân vào các trung tâm bảo trợ
xã hội nơi trại giam đóng. Giám đốc Trung tâm bảo trợ xã hội phải có trách
nhiệm tiếp nhận và nuôi dưỡng con phạm nhân theo đề nghị của Giám thị trại
giam. Ở những trại có nhiều trẻ em là con của phạm nhân, Giám thị trại giam
phải tổ chức nhà giữ trẻ cho phạm nhân trong giờ phạm nhân đi lao động, học
tập.
Điều 23. Phạm nhân được chia thành các
đội, tổ để lao động, học tập và sinh hoạt. Số lượng phạm nhân của từng đội, tổ
trong trại giam do Bộ Công an, Bộ Quốc phòng quy định.
Điều 24.
1. Mọi khoản thu, chi từ hoạt động lao động, dạy
nghề của phạm nhân phải được thể hiện qua hệ thống tài vụ - kế toán của trại
giam theo chế độ kế toán, thống kê hiện hành của Nhà nước. Kết quả lao động do
phạm nhân làm ra, sau khi trừ chi phí hợp lý, được sử dụng như sau:
a) Chi bổ sung mức ăn cho phạm nhân;
b) Bổ sung vào quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng của
trại giam;
c) Thưởng cho phạm nhân có kết quả lao động vượt
chỉ tiêu kế hoạch, tăng năng suất lao động;
d) Đầu tư trở lại cho trại giam, mua sắm trang
thiết bị, phương tiện, công cụ lao động và xây dựng cơ sở vật chất phục vụ việc
tổ chức lao động, giáo dục, dạy nghề cho phạm nhân.
2. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Công an,
Bộ Quốc phòng hướng dẫn thực hiện các quy định tại Điều này.
Điều 25.
1. Phạm nhân chưa biết chữ được học văn hoá để
xoá mù chữ, phạm nhân là người chưa thành niên được phổ cập tiểu học. Phạm nhân
là người nước ngoài, dân tộc thiểu số được khuyến khích học tiếng Việt.
Căn cứ vào điều kiện cụ thể của trại giam, Giám
thị trại giam sắp xếp thời gian học văn hoá cho phạm nhân là đối tượng xoá mù
chữ và người chưa thành niên, mỗi tuần học 3 buổi, mỗi buổi học 4 giờ trong
thời gian làm việc.
2. Tất cả phạm chân đều được nghe phổ biến thời
sự, chính sách, được học các chương trình giáo dục công dân vào thứ bảy hàng
tuần (mỗi buổi học 4 giờ).
3. Phạm nhân được học nghề phù hợp với điều kiện
cụ thể của trại giam. Việc dạy nghề cho phạm nhân là người chưa thành niên là
bắt buộc. Thời gian học nghề được tính vào thời gian lao động.
4. Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Giáo dục và Đào
tạo, Bộ Tài chính và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định chương trình
giáo dục, dạy nghề, bố trí giáo viên, cung cấp phương tiện, dụng cụ và các
khoản chi phí cho việc dạy văn hoá, giáo dục công dân, dạy nghề cho phạm nhân.
Điều 26. Trong từng phân trại của trại
giam có Ban tự quản của phạm nhân. Ban tự quản do hội nghị hàng năm của phạm
nhân bầu và được Giám thị trại giam ra quyết định công nhận.
Ban tự quản có trách nhiệm giúp Giám thị trại
giam giữ gìn trật tự, vệ sinh, nội quy, nếp sống văn hoá trong trại giam và trong
từng nhà giam, buồng giam; đề đạt kiến nghị, yêu cầu, nguyện vọng của phạm nhân
với Giám thị trại giam và phải chịu sự theo dõi, quản lý của Giám thị trại
giam.
Chương V
CHẾ ĐỘ THĂM GẶP, NHẬN, GỬI
THƯ, QUÀ, KHIẾU TỐ
Điều 27.
1. Phạm nhân được gặp nhân thân 1 tháng 1 lần
(trừ trường hợp bị thI hành kỷ luật) tại nhà gặp của trại giam và chấp hành
đúng các quy định về thăm gặp.
Mỗi lần gặp thân nhân không quá một giờ; phạm
nhân lập công lớn hoặc trường hợp đặc biệt Giám thị trại giam có thể quyết định
thời gian được gặp thân nhân lâu hơn, nhưng cũng không quá 2 giờ hoặc cho gặp
thêm 1 lần trong tháng.
Phạm nhân có nhiều cố gắng trong lao động, nghiêm
chỉnh chấp hành nội quy, quy chế trại giam hoặc lập công trong thời gian chấp
hành hình phạt tù được gặp thân nhân (là vợ hoặc chồng) không quá 24 giờ.
2. Khi gặp thân nhân, phạm nhân được nhận quà,
thư và tiền. Riêng tiền mặt, phạm nhân phải gửi lưu ký của trại giam và sử dụng
theo quy đinh tại khoản 2 Điều 12 Quy chế này. Đối với phạm nhân được gặp thân
nhân từ 3 giờ trở lên thì được ở buồng riêng trong phạm vi nhà thăm gặp của
trại giam.
3. Thân nhân của phạm nhân đến thăm phạm nhận
phải có sổ thăm, gặp hoặc đơn xin thăm gặp (có xác nhận của chính quyền địa
phương hoặc cơ quan, nơi cư trú, công tác, học tập). Việc thăm gặp phạm nhân là
người nước ngoài hoặc người nước ngoài đến thăm gặp phạm nhân Việt Nam
phải được sự đồng ý của Cục trưởng Cục quản lý trại giam Bộ Công an hoặc Cục
trưởng Cục Điều tra hình sự Bộ Quốc phòng. Các trường hợp tiếp xúc lãnh sự phải
được sự đồng ý của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng.
Phạm nhân được liên lạc điện thoại trong nước,
bằng tiếng Việt với thân nhân mỗi tháng 1 lần, mỗi lần không quá 5 phút. Giám
thị trại giam xem xét, quyết định việc cho phạm nhân liên lạc bằng điện thoại
và phải tổ chức kiểm soát chặt chẽ việc liên lạc bằng điện thoại giữa phạm nhân
với thân nhân để không làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự.
Điều 28. Phạm nhân được gửi mỗi tháng
2 lá thư, các thư gửi và nhận đều phải qua kiểm duyệt.
Mỗi tháng phạm nhân được nhận 1gói quà (không quá
7 kg). Trước khi phạm nhân nhận quà, cán bộ trại giam phải kiểm tra.
Điều 29. Đơn, thư khiếu nại, tố cáo
của phạm nhân phải được gửi đến cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án, cơ
quan cấp trên của trại giam.
Các cơ quan, đơn vị khi nhận được đơn, thư khiếu
nại, tố cáo của phạm nhân phải xác minh, làm rõ sự việc và trả lời cho phạm
nhân theo đúng quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
Điều 30. Phạm nhân là người nước ngoài
được giam riêng trong trại giam. Các tiêu chuẩn về ăn, mặc, ở, chế độ lao động,
học tập, nhận gửi thư, quà, việc khiếu nại, tố cáo, việc xét giảm thời hạn,
khen thưởng, kỷ luật đối với phạm nhân là người nước ngoài thực hiện theo các
quy định của Pháp lệnh Thi hành án phạt tù và Quy chế này, trừ trường hợp các điều
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác.
Điều 31. Việc xây dựng, sửa chữa trại
giam, bố trí trang thịết bị, phương tiện cần thiết cho việc quản lý, giam giữ,
lao động, học tập của phạm nhân do ngân sách nhà nước cấp riêng theo đề nghị của
Bộ Công an và Bộ Quốc phòng.
Chương VI
THỦ TỤC TIẾP NHẬN PHẠM NHÂN
ĐẦU THÚ,
GIẢM THỜI HẠN, TẠM ĐÌNH CHỈ
THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ
Điều 32.
1. Đối với phạm nhân đang chấp hành hình phạt tù
tại trại giam đã bỏ trốn nay đến đầu thú thì Giám thị trại giam sau khi kiểm
tra căn cước, đặc điểm của họ, tiếp nhận họ vào trại giam, lập biên bản về việc
họ đến đầu thú, sau đó báo cáo cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền và Cục quản
lý trại giam Bộ Công an hoặc Cục Điều tra hình sự Bộ Quốc phòng biết. Phạm nhân
phải tiếp tục chấp hành án chờ quyết định của Cơ quan điều tra.
2. Đối với phạm nhân chấp hành án tại một trại
giam bỏ trốn nay đến đầu thú tại một trại giam khác, sau khi lập biên bản về
việc đầu thú, Giám thị trại giam phải báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm
quyền, Cục quản lý trại giam Bộ Công an hoặc Cục Điều tra hình sự Bộ Quốc phòng
xem xét, quyết định theo quy định của pháp luật và chờ quyết định của Cơ quan
điều tra.
Điều 33. Khi phạm nhân có đủ điều kiện
để được tạm đình chỉ hoặc giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù, Giám thị trại
giam có trách nhiệm làm các thủ tục đề nghị tạm đình chỉ hoặc giảm thời hạn
chấp hành hình phạt tù cho phạm nhân theo đúng quy định của Bộ Luật Tố tụng
hình sự và quy định pháp luật khác có liên quan.
Việc xét đề nghị tạm đình chỉ hoặc giảm thời hạn
chấp hành hình phạt tù được tiến hành thường xuyên hoặc đột xuất đối với mỗi
phạm nhân, nếu họ có đủ điều kiện.
Chương VII
CHẾ ĐỘ KHEN THƯỞNG, KỶ LUẬT
ĐỐI VỚI PHẠM NHÂN
Điều 34. Trong thời gian chấp hành án
phạt tù nếu phạm nhân thực sự ăn năn hối lỗi, chấp hành tốt nội quy, quy chế
trại giam, lao động vượt mức chỉ tiêu kế hoạch, lập công... Giám thị trại giam
xem xét và quyết định khen thưởng theo các hình thức sau:
- Biểu đương;
- Thưởng tiền hoặc hiện vật;
- Tăng số lần và thời gian gặp gỡ thân nhân, tăng
số lần và số lượng quà được nhận;
- Được đề nghị giảm thời hạn chấp hành hình phạt
tù theo quy định của pháp luật.
Các quyết định khen thưởng phải bằng văn bản lưu
vào hồ sơ của phạm nhân.
Điều 35.
1. Trong thời gian ở trại, nếu phạm nhân vi phạm
quy chế, nội quy trại giam, lao động chây lười, Giám thị trại giam xét và quyết
định kỷ luật các hình thức sau:
- Cảnh cáo;
- Bị giam tại buồng kỷ luật đến 7 ngày và có thể
bị gia hạn đến 15 ngày. Trong thời gian này nếu phạm nhân có tiến bộ sẽ được
Giám thị trại giam quyết định giảm thời gian phạt giam tại buồng kỷ luật;
- Trường hợp hành vi vi phạm pháp luật của phạm
nhân có dấu hiệu tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều
tra thì Giám thị trại giam ra quyết định khởi tố vụ án, tiến hành các hoạt động
điều tra và chuyển hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền theo quy định
của pháp luật tố tụng hình sự.
2. Phạm nhân phải bồi thường nếu họ làm hư hỏng,
mất mát tài sản của trại giam hoặc của phạm nhân khác.
3. Các quyết định kỷ luật phải bằng văn bản lưu
vào hồ sơ của phạm nhân.
Điều 36. Buồng kỷ luật phải được xây
dựng kiên cố. Trong thời gian bị kỷ luật phạm nhân có thể bị cùm chân (trừ phạm
nhân nữ hoặc người chưa thành niên)./.
TM. CHÍNH PHỦ
THỦ TƯỚNG
Nguyễn Tấn Dũng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
cảm ơn bạn đã đóng góp cho BLOG ngày càng hoàn thiện!