PHÁP LỆNH
CỦA UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI SỐ 08/2003/PL-UBTVQH11
NGÀY 25 THÁNG 02 NĂM 2003 VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
NGÀY 25 THÁNG 02 NĂM 2003 VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
Để góp phần giải quyết các vụ
tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại, bảo đảm quyền tự do kinh
doanh, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên, phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết
số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10;
Căn cứ vào Nghị quyết số
12/2002/QH11 ngày 16 tháng 12 năm 2002 của Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 2 về
Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khoá XI (2002-2007)
và năm 2003;
Pháp lệnh này quy định về
Trọng tài thương mại.
CHƯƠNG I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Pháp lệnh này quy định về tổ chức và tố tụng
trọng tài để giải quyết các vụ tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại
theo sự thoả thuận của các bên.
Điều 2. Giải thích từ ngữ
Trong Pháp lệnh này, các từ ngữ dưới đây được
hiểu như sau:
1. Trọng tài là phương thức giải quyết
tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được các bên thỏa thuận và được
tiến hành theo trình tự, thủ tục tố tụng do Pháp lệnh này quy định.
2. Thoả thuận trọng tài là thoả thuận giữa
các bên cam kết giải quyết bằng trọng tài các vụ tranh chấp có thể phát sinh
hoặc đã phát sinh trong hoạt động thương mại.
3. Hoạt động thương mại là việc thực hiện
một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua
bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý thương mại; ký gửi;
thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li - xăng; đầu tư; tài
chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng hoá, hành khách
bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương
mại khác theo quy định của pháp luật.
4. Tranh chấp có yếu tố nước ngoài là
tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại mà một bên hoặc các bên là
người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài tham gia hoặc căn cứ để xác lập, thay
đổi, chấm dứt quan hệ có tranh chấp phát sinh ở nước ngoài hoặc tài sản liên
quan đến tranh chấp đó ở nước ngoài.
5. Trọng tài viên là người có đủ các điều
kiện quy định tại Điều 12 của Pháp lệnh này, được các bên chọn hoặc Trung tâm
Trọng tài hoặc Tòa án có thẩm quyền chỉ định để giải quyết vụ tranh chấp.
6. Những người thân thích là những người
thuộc ba hàng thừa kế theo quy định của Bộ luật dân sự.
7. Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra
một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc
dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết mà khả năng cho phép.
Điều 3. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
1. Tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài, nếu
trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp các bên có thoả thuận trọng tài.
2. Khi giải quyết tranh chấp, Trọng tài viên phải
độc lập, khách quan, vô tư, phải căn cứ vào pháp luật và tôn trọng thoả thuận
của các bên.
Điều 4. Hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
Tranh chấp giữa các bên được giải quyết tại Hội
đồng Trọng tài do Trung tâm Trọng tài tổ chức hoặc tại Hội đồng Trọng tài do
các bên thành lập theo quy định của Pháp lệnh này.
Hội đồng Trọng tài gồm ba Trọng tài viên hoặc
Trọng tài viên duy nhất do các bên thoả thuận.
Điều 5. Thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp trong trường
hợp có thoả thuận trọng tài
Trong trường hợp vụ tranh chấp đã có thoả thuận
trọng tài, nếu một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối thụ lý, trừ
trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu.
Điều 6. Hiệu lực của quyết định trọng tài
Quyết định trọng tài là chung thẩm, các bên phải
thi hành, trừ trường hợp Toà án huỷ quyết định trọng tài theo quy định của Pháp
lệnh này.
Điều 7. Nguyên tắc áp dụng pháp luật để giải quyết vụ tranh chấp
1. Đối với vụ tranh chấp giữa các bên Việt Nam,
Hội đồng Trọng tài áp dụng pháp luật của Việt Nam để giải quyết tranh chấp.
2. Đối với vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài,
Hội đồng Trọng tài áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn. Việc lựa chọn pháp
luật nước ngoài và việc áp dụng pháp luật nước ngoài không được trái với các
nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Trong trường hợp các bên không lựa chọn được pháp
luật để giải quyết vụ tranh chấp thì Hội đồng Trọng tài quyết định.
Điều 8. Áp dụng điều ước quốc tế
Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác với quy định của
Pháp lệnh này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.
CHƯƠNG II
THỎA THUẬN TRỌNG TÀI
THỎA THUẬN TRỌNG TÀI
Điều 9. Hình thức thoả thuận trọng tài
1.Thoả thuận trọng tài phải được lập bằng văn
bản. Thoả thuận trọng tài thông qua thư, điện báo, telex, fax, thư điện tử hoặc
hình thức văn bản khác thể hiện rõ ý chí của các bên giải quyết vụ tranh chấp
bằng trọng tài được coi là thoả thuận trọng tài bằng văn bản.
2. Thoả thuận trọng tài có thể là điều khoản
trọng tài trong hợp đồng hoặc là một thỏa thuận riêng.
Điều 10. Thoả thuận trọng tài vô hiệu
Thỏa thuận trọng tài vô hiệu trong những trường
hợp sau đây:
1. Tranh chấp phát sinh không thuộc hoạt động
thương mại được quy định tại khoản 3 Điều 2 của Pháp lệnh này;
2. Người ký thoả thuận trọng tài không có thẩm
quyền ký kết theo quy định của pháp luật;
3. Một bên ký kết thoả thuận trọng tài không có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
4. Thoả thuận trọng tài không quy định hoặc quy
định không rõ đối tượng tranh chấp, tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết
vụ tranh chấp mà sau đó các bên không có thoả thuận bổ sung;
5. Thoả thuận trọng tài không được lập theo quy
định tại Điều 9 của Pháp lệnh này;
6. Bên ký kết thoả thuận trọng tài bị lừa dối, bị
đe doạ và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài vô hiệu; thời hiệu yêu cầu
tuyên bố thoả thuận trọng tài vô hiệu là sáu tháng, kể từ ngày ký kết thoả
thuận trọng tài, nhưng phải trước ngày Hội đồng Trọng tài mở phiên họp đầu tiên
giải quyết vụ tranh chấp quy định tại Điều 30 của Pháp lệnh này.
Điều 11. Quan hệ giữa điều khoản trọng tài với hợp đồng
Điều khoản trọng tài tồn tại độc lập với hợp
đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, sự vô hiệu của hợp đồng không
ảnh hưởng đến hiệu lực của điều khoản trọng tài.
CHƯƠNG III
TRỌNG TÀI VIÊN
TRỌNG TÀI VIÊN
Điều 12. Trọng tài viên
1. Công dân Việt Nam có đủ các điều kiện sau đây
có thể làm Trọng tài viên:
a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
b) Có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, vô tư,
khách quan;
C) Có bằng đại học và đã qua thực tế công tác
theo ngành đã học từ năm năm trở lên.
2. Người đang bị quản chế hành chính, đang bị
truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã bị kết án mà chưa được xoá án tích không
được làm Trọng tài viên.
3.Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Chấp
hành viên, công chức đang công tác tại Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân,
cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án không được làm Trọng tài viên.
Điều 13. Quyền, nghĩa vụ của Trọng tài viên
1.
Trọng tài viên có các quyền sau đây:
A)
Chấp nhận hoặc từ chối giải quyết vụ tranh chấp;
B)
Độc lập trong việc giải quyết vụ tranh chấp;
C)
Từ chối cung cấp các thông tin liên quan đến vụ tranh chấp;
D)
Hưởng thù lao.
2.
Trọng tài viên có các nghĩa vụ sau đây:
A)
Tuân thủ các quy định của Pháp lệnh này;
B)
Vô tư, khách quan trong việc giải quyết vụ tranh chấp;
C)
Từ chối giải quyết vụ tranh chấp trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều
27 của Pháp lệnh này;
D)
Giữ bí mật nội dung vụ tranh chấp mà mình giải quyết;
Đ)
Không được nhận hối lộ hoặc có hành vi khác vi phạm đạo đức Trọng tài viên.
CHƯƠNG IV
TRUNG TÂM TRỌNG TÀI
TRUNG TÂM TRỌNG TÀI
Điều 14. Điều kiện thành lập Trung tâm Trọng tài
1. Căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế - xã
hội của các địa phương, Trung tâm Trọng tài được thành lập tại một số địa
phương theo quy định của Chính phủ.
2. Khi có ít nhất năm sáng lập viên có đủ điều
kiện làm Trọng tài viên theo quy định tại Điều 12 của Pháp lệnh này đề nghị và
được Hội Luật gia Việt Nam giới thiệu, Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét, quyết định
cấp Giấy phép thành lập Trung tâm Trọng tài.
3. Hồ sơ đề nghị thành lập Trung tâm Trọng tài
gồm có các nội dung sau đây:
A) Đơn xin phép thành lập Trung tâm Trọng tài;
B) Họ và tên, địa chỉ, nghề nghiệp của các sáng
lập viên;
C) Điều lệ của Trung tâm Trọng tài;
D) Văn bản giới thiệu của Hội Luật gia Việt Nam.
4. Đơn xin phép thành lập Trung tâm Trọng tài gồm
có các nội dung sau đây:
A) Ngày, tháng, năm viết đơn;
B) Họ và tên, địa chỉ, nghề nghiệp của các sáng
lập viên;
C) Lĩnh vực hoạt động của Trung tâm Trọng tài;
D) Địa điểm dự định đặt trụ sở của Trung tâm
Trọng tài.
5. Trong thời hạn bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày
nhận được hồ sơ hợp lệ, Bộ trưởng Bộ Tư pháp cấp Giấy phép thành lập Trung tâm
Trọng tài và phê chuẩn Điều lệ của Trung tâm Trọng tài; trong trường hợp từ
chối, phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
6. Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận
được giấy phép thành lập, Trung tâm Trọng tài phải đăng ký hoạt động tại Sở Tư
pháp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Sở Tư pháp),
nơi Trung tâm Trọng tài đặt trụ sở. Hết thời hạn này mà Trung tâm Trọng tài
không đăng ký thì giấy phép bị thu hồi.
Chính phủ quy định trình tự, thủ tục đăng ký hoạt
động của Trung tâm Trọng tài.
Điều 15. Đăng báo về việc thành lập Trung tâm Trọng tài
1. Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày được
cấp Giấy đăng ký hoạt động, Trung tâm Trọng tài phải đăng báo hàng ngày của
trung ương hoặc báo địa phương nơi đăng ký hoạt động trong ba số liên tiếp về
những nội dung chủ yếu sau đây:
A) Tên, địa chỉ trụ sở của Trung tâm Trọng tài;
B) Lĩnh vực hoạt động của Trung tâm Trọng tài;
C) Số Giấy đăng ký hoạt động, cơ quan cấp, ngày,
tháng, năm cấp;
D) Thời điểm bắt đầu hoạt động của Trung tâm
Trọng tài.
2. Trung tâm Trọng tài phải niêm yết tại trụ sở
những nội dung quy định tại khoản 1 Điều này và danh sách Trọng tài viên của
Trung tâm Trọng tài.
Điều 16. Địa vị pháp lý và cơ cấu tổ chức của Trung tâm
Trọng tài
1. Trung tâm Trọng tài là tổ chức phi chính phủ,
có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng.
2. Trung tâm Trọng tài được lập chi nhánh, văn
phòng đại diện của Trung tâm.
3. Trung tâm Trọng tài có Ban điều hành và các
Trọng tài viên.
Ban điều hành Trung tâm Trọng tài gồm có Chủ
tịch, một hoặc các Phó chủ tịch, có thể có Tổng Thư ký do Chủ tịch Trung tâm
Trọng tài cử.
Những người được Trung tâm Trọng tài mời làm
Trọng tài viên phải có đủ điều kiện quy định tại Điều 12 của Pháp lệnh này.
Điều 17. Nhiệm vụ, quyền hạn của Trung tâm Trọng tài
Trung tâm Trọng tài có những nhiệm vụ, quyền hạn
sau đây:
1. Xây dựng Điều lệ và Quy tắc tố tụng của Trung
tâm Trọng tài, nhưng không được trái với những quy định của Pháp lệnh này;
2. Mời những người có đủ điều kiện quy định tại
Điều 12 của Pháp lệnh này làm Trọng tài viên của Trung tâm;
3. Chỉ định Trọng tài viên để thành lập Hội đồng
Trọng tài theo quy định của Pháp lệnh này;
4. Cung cấp các dịch vụ hành chính, văn phòng cho
các Hội đồng Trọng tài giải quyết các vụ tranh chấp;
5. Thu phí trọng tài, trả thù lao cho Trọng tài
viên theo Điều lệ của Trung tâm Trọng tài;
6. Tổ chức rút kinh nghiệm, bồi dưỡng nâng cao
trình độ và kỹ năng giải quyết tranh chấp của Trọng tài viên;
7. Báo cáo định kỳ hoạt động của Trung tâm Trọng
tài với Bộ Tư pháp, Hội Luật gia Việt Nam và Sở Tư pháp nơi Trung tâm Trọng tài
đăng ký hoạt động;
8. Xóa tên Trọng tài viên trong danh sách Trọng
tài viên của Trung tâm Trọng tài khi Trọng tài viên vi phạm nghiêm trọng các
quy định của Pháp lệnh này và Điều lệ của Trung tâm Trọng tài;
9. Lưu trữ hồ sơ, cung cấp các bản sao quyết định
trọng tài theo yêu cầu của các bên hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
10. Nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của
pháp luật.
Điều 18. Chấm dứt hoạt động của Trung tâm Trọng tài
1. Hoạt động của Trung tâm Trọng tài chấm dứt
trong các trường hợp sau đây:
A) Các trường hợp quy định tại Điều lệ của Trung
tâm Trọng tài;
B) Bị thu hồi Giấy phép thành lập Trung tâm Trọng
tài.
2. Khi chấm dứt hoạt động, Trung tâm Trọng tài
phải nộp lại Giấy phép thành lập Trung tâm Trọng tài cho cơ quan đã cấp giấy
phép.
3. Chính phủ quy định về trình tự, thủ tục chấm
dứt hoạt động của Trung tâm Trọng tài.
CHƯƠNG V
TỐ TỤNG TRỌNG TÀI
TỐ TỤNG TRỌNG TÀI
Điều 19. Quyền lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài
Các bên có quyền lựa chọn Trung
tâm Trọng tài hoặc Hội đồng Trọng tài do các bên thành lập để giải quyết vụ
tranh chấp theo quy định về tố tụng trọng tài của Pháp lệnh này.
Điều 20. Đơn kiện
1. Để giải quyết vụ tranh chấp tại Trung tâm
Trọng tài, nguyên đơn phải làm đơn kiện gửi Trung tâm Trọng tài.
Đơn kiện gửi Trung tâm Trọng tài gồm có các nội
dung chủ yếu sau đây:
A) Ngày, tháng, năm viết đơn;
B) Tên và địa chỉ của các bên;
C) Tóm tắt nội dung vụ tranh chấp;
D) Các yêu cầu của nguyên đơn;
Đ) Trị giá tài sản mà nguyên đơn yêu cầu;
E) Trọng tài viên của Trung tâm Trọng tài mà
nguyên đơn chọn.
2. Để giải quyết vụ tranh chấp tại Hội đồng Trọng
tài do các bên thành lập, nguyên đơn phải làm đơn kiện gửi cho bị đơn; nội dung
đơn kiện theo quy định tại khoản 1 Điều này.
3. Kèm theo đơn kiện, nguyên đơn phải gửi bản
chính hoặc bản sao thoả thuận trọng tài, bản chính hoặc bản sao các tài liệu,
chứng cứ. Bản sao phải có chứng thực hợp lệ.
4. Tố tụng trọng tài bắt đầu khi Trung tâm Trọng
tài nhận được đơn kiện của nguyên đơn hoặc từ khi bị đơn nhận được đơn kiện của
nguyên đơn, nếu vụ tranh chấp được giải quyết tại Hội đồng Trọng tài do các bên
thành lập.
5. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ khi
nhận được đơn kiện, Trung tâm Trọng tài phải gửi cho bị đơn bản sao đơn kiện
của nguyên đơn và những tài liệu theo quy định tại khoản 3 Điều này.
Điều 21. Thời hiệu khởi kiện giải quyết vụ tranh chấp
bằng trọng tài
1. Đối với vụ tranh chấp mà pháp luật có quy định
thời hiệu khởi kiện thì thực hiện theo quy định đó của pháp luật.
2. Đối với vụ tranh chấp mà pháp luật không quy
định thời hiệu khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện giải quyết vụ tranh chấp bằng
trọng tài là hai năm, kể từ ngày xảy ra tranh chấp, trừ trường hợp bất khả
kháng. Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày xảy ra sự
kiện cho đến khi không còn sự kiện bất khả kháng.
Điều 22. Phí trọng tài
1. Nguyên đơn phải nộp tạm ứng phí trọng tài, nếu
các bên không có thỏa thuận khác.
2. Trong trường hợp giải quyết vụ tranh chấp tại
Trung tâm Trọng tài thì Ban điều hành Trung tâm Trọng tài ấn định phí trọng tài
theo Điều lệ của Trung tâm.
3. Trong trường hợp giải quyết vụ tranh chấp tại
Hội đồng Trọng tài do các bên thành lập thì phí trọng tài do Hội đồng Trọng tài
ấn định.
4. Bên thua kiện phải chịu phí trọng tài, trừ
trường hợp các bên có thoả thuận khác.
Điều 23. Địa điểm tiến hành trọng tài
Các bên có quyền thoả thuận địa điểm giải quyết
vụ tranh chấp; nếu không có thoả thuận thì Hội đồng Trọng tài quyết định, nhưng
phải bảo đảm thuận tiện cho các bên trong việc giải quyết.
Điều 24. Bản tự bảo vệ
1. Đối với vụ tranh chấp mà các bên đã chọn Trung
tâm Trọng tài để giải quyết, nếu các bên không có thoả thuận khác thì trong
thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được đơn kiện và các tài liệu kèm theo
của nguyên đơn do Trung tâm Trọng tài gửi đến, bị đơn phải gửi cho Trung tâm
Trọng tài bản tự bảo vệ.
Đối với vụ tranh chấp được giải quyết tại Hội
đồng Trọng tài do các bên thành lập, nếu không có thoả thuận khác thì trong
thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được đơn kiện của nguyên đơn và các tài
liệu kèm theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 20 của Pháp lệnh này, bị đơn
phải gửi cho nguyên đơn bản tự bảo vệ và tên Trọng tài viên mà mình chọn.
2. Bản tự bảo vệ phải gồm có các nội dung chủ yếu
sau đây:
A) Ngày, tháng, năm viết bản tự bảo vệ;
B) Tên và địa chỉ của bị đơn;
C) Lý lẽ và chứng cứ để tự bảo vệ trong đó bao
gồm việc phản bác một phần hoặc toàn bộ nội dung đơn kiện của nguyên đơn. Ngoài
nội dung quy định tại điểm này, nếu bị đơn cho rằng vụ tranh chấp không thuộc
thẩm quyền giải quyết của trọng tài, không có thoả thuận trọng tài hoặc thoả
thuận trọng tài vô hiệu thì có quyền nêu ra trong bản tự bảo vệ.
3. Theo yêu cầu của bị đơn, thời hạn bị đơn phải
gửi bản tự bảo vệ kèm theo chứng cứ có thể dài hơn ba mươi ngày, nhưng phải
trước ngày Hội đồng Trọng tài mở phiên họp theo quy định tại Điều 30 của Pháp
lệnh này.
Điều 25. Thành lập Hội đồng Trọng tài tại Trung tâm Trọng
tài
1. Trong trường hợp các bên không có thoả thuận
khác thì trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn kiện, Trung
tâm Trọng tài phải gửi cho bị đơn bản sao đơn kiện, tên Trọng tài viên mà
nguyên đơn chọn và các tài liệu kèm theo cùng với danh sách Trọng tài viên của
Trung tâm Trọng tài. Nếu các bên không có thoả thuận khác thì trong thời hạn ba
mươi ngày, kể từ ngày nhận được đơn kiện và các tài liệu kèm theo do Trung tâm
Trọng tài gửi đến, bị đơn phải chọn Trọng tài viên có tên trong danh sách Trọng
tài viên của Trung tâm Trọng tài và báo cho Trung tâm Trọng tài biết hoặc yêu
cầu Chủ tịch Trung tâm Trọng tài chỉ định Trọng tài viên cho mình. Hết thời hạn
này, nếu bị đơn không chọn Trọng tài viên hoặc không yêu cầu Chủ tịch Trung tâm
Trọng tài chỉ định Trọng tài viên thì trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ
ngày hết hạn quy định tại khoản này, Chủ tịch Trung tâm Trọng tài chỉ định
Trọng tài viên có tên trong danh sách Trọng tài viên của Trung tâm Trọng tài
cho bị đơn.
2. Trong trường hợp vụ tranh chấp có nhiều bị đơn
thì các bị đơn phải thống nhất chọn một Trọng tài viên trong thời hạn ba mươi
ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu chọn Trọng tài viên của Trung tâm Trọng tài.
Hết thời hạn này, nếu các bị đơn không chọn được Trọng tài viên thì trong thời
hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu, Chủ tịch Trung tâm Trọng
tài chỉ định Trọng tài viên có tên trong danh sách Trọng tài viên của Trung tâm
Trọng tài cho các bị đơn.
3. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày hai
Trọng tài viên được các bên chọn hoặc được Chủ tịch Trung tâm Trọng tài chỉ
định, các Trọng tài viên này phải chọn Trọng tài viên thứ ba có tên trong danh
sách Trọng tài viên của Trung tâm Trọng tài làm Chủ tịch Hội đồng Trọng tài.
Hết thời hạn này, hai Trọng tài viên được chọn hoặc được chỉ định không chọn
được Trọng tài viên thứ ba thì trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày hết
hạn, theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Chủ tịch Trung tâm Trọng tài chỉ
định Trọng tài viên thứ ba có tên trong danh sách Trọng tài viên của Trung tâm
Trọng tài làm Chủ tịch Hội đồng Trọng tài.
4. Trong trường hợp các bên thoả thuận vụ tranh
chấp do Trọng tài viên duy nhất của Trung tâm Trọng tài giải quyết, nhưng không
chọn được Trọng tài viên thì theo yêu cầu của một bên, Chủ tịch Trung tâm Trọng
tài chỉ định Trọng tài viên duy nhất cho các bên trong thời hạn mười lăm ngày,
kể từ ngày nhận được yêu cầu và thông báo cho các bên.
Trọng tài viên duy nhất làm nhiệm vụ như một Hội
đồng Trọng tài. Quyết định của Trọng tài viên duy nhất có hiệu lực thi hành như
quyết định của Hội đồng Trọng tài.
Điều 26. Hội đồng Trọng tài do các bên thành lập
1.
Trong trường hợp các bên không có thoả thuận khác thì trong thời hạn ba mươi
ngày, kể từ ngày nguyên đơn gửi đơn kiện cho bị đơn, bị đơn phải chọn Trọng tài
viên và thông báo cho nguyên đơn biết Trọng tài viên mà mình chọn. Hết thời hạn
này, nếu bị đơn không thông báo cho nguyên đơn tên Trọng tài viên mà mình chọn,
thì nguyên đơn có quyền yêu cầu Toà án tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
(sau đây gọi chung là Toà án cấp tỉnh) nơi bị đơn có trụ sở hoặc cư trú chỉ
định Trọng tài viên cho bị đơn. Trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày
nhận được đơn yêu cầu, Chánh án Toà án giao cho một Thẩm phán chỉ định Trọng
tài viên cho bị đơn và thông báo cho các bên.
2.
Trong trường hợp vụ tranh chấp có nhiều bị đơn thì các bị đơn phải thống nhất
chọn một Trọng tài viên trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được đơn
kiện của nguyên đơn và các tài liệu kèm theo. Hết thời hạn này, các bị đơn
không chọn được Trọng tài viên thì nguyên đơn có quyền yêu cầu Tòa án cấp tỉnh,
nơi có trụ sở hoặc cư trú của một trong các bị đơn chỉ định Trọng tài viên cho
các bị đơn. Trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu,
Chánh án Toà án giao cho một Thẩm phán chỉ định Trọng tài viên theo yêu cầu của
nguyên đơn và thông báo cho các bên.
3.
Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày hai Trọng viên được chọn hoặc được Toà
án chỉ định, các Trọng tài viên này phải thống nhất chọn Trọng tài viên thứ ba
làm Chủ tịch Hội đồng Trọng tài. Hết thời hạn này, nếu hai Trọng tài viên được
chọn hoặc được chỉ định không chọn được Trọng tài viên thứ ba, các bên có quyền
yêu cầu Toà án cấp tỉnh, nơi bị đơn có trụ sở hoặc cư trú chỉ định Trọng tài
viên thứ ba. Trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu,
Chánh án Toà án giao cho một Thẩm phán chỉ định Trọng tài viên thứ ba làm Chủ
tịch Hội đồng Trọng tài và thông báo cho các bên.
4.
Trọng tài viên do các bên chọn hoặc do Tòa án chỉ định có thể là Trọng tài viên
trong danh sách hoặc ngoài danh sách Trọng tài viên của các Trung tâm Trọng tài
của Việt Nam.
5.
Trong trường hợp các bên thoả thuận vụ tranh chấp do Trọng tài viên duy nhất
giải quyết, nhưng không chọn được Trọng tài viên duy nhất thì theo yêu cầu của
một bên, Chánh án Toà án cấp tỉnh nơi bị đơn có trụ sở hoặc cư trú giao cho một
Thẩm phán chỉ định Trọng tài viên duy nhất cho các bên trong thời hạn mười lăm
ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu và thông báo cho các bên.
Trọng
tài viên duy nhất làm nhiệm vụ như một Hội đồng Trọng tài. Quyết định của Trọng
tài viên duy nhất có hiệu lực thi hành như quyết định của Hội đồng Trọng tài.
Điều 27. Thay đổi Trọng tài viên
1.
Trọng tài viên phải từ chối giải quyết vụ tranh chấp, các bên có quyền yêu cầu
thay đổi Trọng tài viên giải quyết vụ tranh chấp trong các trường hợp sau đây:
A)
Trọng tài viên là người thân thích của một bên hoặc đại diện của bên đó;
B)
Trọng tài viên có lợi ích trong vụ tranh chấp;
C)
Có căn cứ rõ ràng cho thấy Trọng tài viên không vô tư, khách quan trong khi làm
nhiệm vụ.
2.
Từ khi được chọn hoặc được chỉ định và trong quá trình tố tụng trọng tài, Trọng
tài viên phải thông báo công khai và kịp thời những việc có thể gây nghi ngờ về
tính khách quan, vô tư của mình.
3.
Sau khi đã chọn Trọng tài viên, các bên mới phát hiện được Trọng tài viên do
mình chọn thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này thì có
quyền yêu cầu Trọng tài viên này từ chối giải quyết vụ tranh chấp.
4.
Việc thay đổi Trọng tài viên do các Trọng tài viên khác trong Hội đồng Trọng
tài quyết định. Trong trường hợp không quyết định được hoặc nếu hai Trọng tài
viên hay Trọng tài viên duy nhất từ chối giải quyết vụ tranh chấp thì việc thay
đổi Trọng tài viên được quy định như sau:
A)
Đối với vụ tranh chấp do Trung tâm Trọng tài tổ chức giải quyết thì Chủ tịch
Trung tâm Trọng tài quyết định;
B)
Đối với vụ tranh chấp do Hội đồng Trọng tài được các bên thành lập giải quyết
thì theo yêu cầu của nguyên đơn, Chánh án Toà án cấp tỉnh nơi bị đơn có trụ sở
hoặc cư trú giao cho một Thẩm phán xem xét quyết định. Quyết định của Toà án là
chung thẩm.
5.
Trong quá trình tố tụng trọng tài, nếu có Trọng tài viên không thể tiếp tục
tham gia thì việc thay đổi Trọng tài viên tuỳ theo Hội đồng Trọng tài do Trung
tâm Trọng tài thành lập hay do các bên thành lập mà thực hiện theo quy định tại
khoản 4 Điều này.
6.
Trong trường hợp cần thiết, sau khi tham khảo ý kiến của các bên, Hội đồng
Trọng tài mới thành lập có thể xem xét lại những vấn đề đã xem xét tại các
phiên họp giải quyết tranh chấp trước.
Điều 28. Sửa đổi, bổ sung, rút đơn kiện
Nguyên đơn có thể sửa đổi, bổ sung, rút đơn kiện
trước khi Hội đồng Trọng tài ra quyết định trọng tài.
Điều 29. Đơn kiện lại
1. Bị đơn có quyền kiện lại nguyên đơn về những
vấn đề có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn.
2. Đơn kiện lại phải được gửi cho Hội đồng Trọng
tài, đồng thời được gửi cho nguyên đơn trước ngày mở phiên họp của Hội đồng
Trọng tài giải quyết đơn kiện của nguyên đơn.
Nguyên đơn phải có bản trả lời đơn kiện lại trong
thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được đơn kiện lại. Bản trả lời phải được
gửi cho bị đơn và Hội đồng Trọng tài.
3. Thủ tục kiện lại được tiến hành như thủ tục
giải quyết đơn kiện của nguyên đơn và do Hội đồng Trọng tài giải quyết cùng một
lúc.
Điều 30. Xem xét thoả thuận trọng tài, thẩm quyền giải
quyết vụ tranh chấp của Hội đồng Trọng tài
1. Trước khi xem xét nội dung vụ tranh chấp, nếu
có đơn khiếu nại của một bên về việc Hội đồng Trọng tài không có thẩm quyền
giải quyết vụ tranh chấp; vụ tranh chấp không có thoả thuận trọng tài hoặc thoả
thuận trọng tài vô hiệu, Hội đồng Trọng tài phải xem xét, quyết định với sự có
mặt của các bên, trừ trường hợp các bên có yêu cầu khác. Bên khiếu nại đã được
triệu tập hợp lệ mà vắng mặt không có lý do chính đáng thì được coi là đã rút
đơn khiếu nại. Hội đồng Trọng tài tiếp tục xem xét giải quyết vụ tranh chấp.
2. Trong trường hợp không đồng ý với quyết định
của Hội đồng Trọng tài về nội dung nêu tại khoản 1 Điều này, trong thời hạn năm
ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định của Hội đồng Trọng tài, các bên
có quyền yêu cầu Toà án cấp tỉnh nơi Hội đồng Trọng tài đã ra quyết định xem
xét lại quyết định của Hội đồng Trọng tài. Bên có yêu cầu phải đồng thời thông
báo việc này cho Hội đồng Trọng tài.
Đơn yêu cầu phải có những nội dung chủ yếu sau
đây:
A) Ngày, tháng, năm viết đơn;
B) Tên và địa chỉ của người viết đơn;
C) Nội dung yêu cầu.
Đơn yêu cầu phải kèm theo các bản sao đơn kiện,
thoả thuận trọng tài, quyết định của Hội đồng Trọng tài. Các bản sao phải có
chứng thực hợp lệ.
Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận
được đơn yêu cầu, Chánh án Toà án giao cho một Thẩm phán xem xét, giải quyết
đơn yêu cầu. Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày được giao, Thẩm phán phải xem
xét, quyết định. Quyết định của Toà án là chung thẩm.
Trong trường hợp Toà án quyết định vụ tranh chấp
không thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài, vụ tranh chấp không có thoả
thuận trọng tài hoặc thoả thuận trọng tài vô hiệu thì Hội đồng Trọng tài ra
quyết định đình chỉ giải quyết vụ tranh chấp. Nếu không có thoả thuận khác, các
bên có quyền khởi kiện vụ tranh chấp ra Toà án. Thời hiệu khởi kiện ra Toà án
theo quy định tại Điều 21 của Pháp lệnh này, nhưng không tính thời gian từ ngày
nguyên đơn khởi kiện tại Trọng tài đến ngày Toà án ra quyết định quy định tại
Điều này.
Điều 31. Nghiên cứu hồ sơ, xác minh sự việc
1. Sau khi được chọn hoặc được chỉ định, các
Trọng tài viên phải nghiên cứu hồ sơ; xác minh sự việc nếu thấy cần thiết.
2. Hội đồng Trọng tài có quyền gặp các bên để
nghe các bên trình bày ý kiến. Theo yêu cầu của một bên hoặc các bên hoặc theo
sáng kiến của mình, Hội đồng Trọng tài có thể tìm hiểu sự việc từ người thứ ba,
với sự có mặt của các bên hoặc sau khi đã thông báo cho các bên.
Điều 32. Thu thập chứng cứ
1. Các bên có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng
minh sự việc mà mình nêu ra. Hội đồng Trọng tài có quyền yêu cầu các bên cung
cấp chứng cứ liên quan đến vụ tranh chấp.
2. Trong trường hợp cần thiết, Hội đồng Trọng tài
có thể tự mình thu thập chứng cứ; mời giám định theo yêu cầu của một bên hoặc
các bên và phải thông báo cho các bên biết. Bên yêu cầu giám định phải nộp tạm
ứng phí giám định, trường hợp các bên mời giám định thì cùng phải nộp tạm ứng
phí giám định.
Điều 33. Quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời
Trong quá trình Hội đồng Trọng tài giải quyết vụ
tranh chấp, nếu quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc có nguy cơ
trực tiếp bị xâm hại, thì các bên có quyền làm đơn đến Toà án cấp tỉnh nơi Hội
đồng Trọng tài thụ lý vụ tranh chấp yêu cầu áp dụng một hoặc một số biện pháp
khẩn cấp tạm thời sau đây:
1. Bảo toàn chứng cứ trong trường hợp chứng cứ
đang bị tiêu huỷ hoặc có nguy cơ bị tiêu huỷ;
2. Kê biên tài sản tranh chấp;
3. Cấm chuyển dịch tài sản tranh chấp;
4. Cấm thay đổi hiện trạng tài sản tranh chấp;
5. Kê biên và niêm phong tài sản ở nơi gửi giữ;
6. Phong toả tài khoản tại ngân hàng.
Điều 34. Thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
1. Bên có yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời quy định tại Điều 33 của Pháp lệnh này phải làm đơn gửi đến Toà án cấp
tỉnh nơi Hội đồng Trọng tài đã thụ lý vụ tranh chấp.
2. Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời phải gửi kèm theo bản sao đơn kiện có đầy đủ nội dung theo quy định tại
Điều 20 và bản sao thoả thuận trọng tài theo quy định tại Điều 9 của Pháp lệnh
này. Các bản sao phải có chứng thực hợp lệ.
Tuỳ theo yêu cầu áp dụng loại biện pháp khẩn cấp
tạm thời mà bên yêu cầu phải cung cấp cho Toà án bằng chứng cụ thể về các chứng
cứ cần được bảo toàn, các chứng cứ về việc bị đơn tẩu tán, cất giấu tài sản có
thể làm cho việc thi hành quyết định trọng tài không thể thực hiện được.
3. Bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời phải nộp một khoản tiền bảo đảm do Toà án ấn định, nhưng không quá nghĩa
vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải thực hiện để bảo vệ lợi ích của bị đơn và
ngăn ngừa sự lạm dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời từ phía người có yêu cầu. Các
khoản tiền này được gửi giữ tại ngân hàng nơi có trụ sở của Toà án quyết định
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
4. Sau khi nhận được đơn yêu cầu và những tài
liệu theo quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này, Chánh án Toà án cấp tỉnh theo quy định tại khoản 1 Điều này giao cho
một Thẩm phán xem xét, giải quyết đơn yêu cầu. Trong thời hạn năm ngày làm
việc, kể từ ngày được giao, Thẩm phán phải kiểm tra tính chính xác của những
tài liệu theo quy định tại khoản 2 Điều này, trong phạm vi yêu cầu của nguyên
đơn, có thể ra quyết định áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm
thời quy định tại Điều 33 của Pháp lệnh này. Trong trường hợp áp dụng một hoặc
một số biện pháp quy định tại các khoản 2, 3, 4, 5 và 6 Điều 33 của Pháp lệnh
này thì tài sản bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có giá trị không quá
nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải thực hiện.
5. Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
phải được gửi ngay cho Hội đồng Trọng tài, các bên tranh chấp và Viện Kiểm sát
cùng cấp.
Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
được thi hành ngay. Việc thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
6. Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày
nhận được quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, Viện trưởng Viện Kiểm
sát cùng cấp có quyền kiến nghị, bị đơn có quyền yêu cầu Chánh án Toà án đã ra
quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời xem xét, giải quyết việc thay
đổi, huỷ bỏ hoặc giữ nguyên các biện pháp đó. Trong thời hạn ba ngày làm việc,
kể từ ngày nhận được kiến nghị của Viện Kiểm sát hoặc yêu cầu của bị đơn, Chánh
án Toà án phải có quyết định và trả lời cho Viện Kiểm sát hoặc bị đơn.
Điều 35. Thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời
Bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
có thể làm đơn yêu cầu thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời khi
không còn phù hợp hoặc không còn cần thiết.
Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận
được đơn yêu cầu thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Chánh án
Toà án cấp tỉnh nơi đã ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời giao
cho một Thẩm phán xem xét, quyết định thay đổi hoặc huỷ bỏ áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời. Quyết định này phải được gửi ngay cho Hội đồng Trọng tài,
các bên tranh chấp và Viện kiểm sát cùng cấp.
Trong trường hợp huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm
thời, Thẩm phán phải xem xét quyết định để người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời nhận lại số tiền bảo đảm quy định tại khoản 3 Điều 34 của Pháp
lệnh này, trừ trường hợp quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh này.
Điều 36. Trách nhiệm của bên yêu cầu áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời
Bên yêu cầp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
phải chịu trách nhiệm về yêu cầu của mình.
Trong trường hợp bên yêu cầu áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời không đúng và gây thiệt hại cho bên kia, cho người thứ ba thì
phải bồi thường.
Điều 37. Hoà giải
1. Trong quá trình tố tụng trọng tài, các bên có
thể tự hoà giải. Trong trường hợp hoà giải thành thì theo yêu cầu của các bên,
Hội đồng Trọng tài sẽ đình chỉ tố tụng.
2. Các bên có thể yêu cầu Hội đồng Trọng tài tiến
hành hoà giải. Trong trương hợp hoà giải thành thì các bên có thể yêu cầu Hội
đồng Trọng tài lập biên bản hoà giải thành và ra quyết định công nhận hoà giải
thành. Biên bản hoà giải thành phải được các bên và các Trọng tài viên ký.
Quyết định công nhận hoà giải thành của Hội đồng Trọng tài là chung thẩm và
được thi hành theo quy định tại Điều 57 của Pháp lệnh này.
Điều 38. Phiên họp giải quyết vụ tranh chấp
1. Thời gian mở phiên họp giải quyết vụ tranh
chấp do Chủ tịch Hội đồng Trọng tài quyết định, nếu các bên không có thoả thuận
khác.
2. Giấy triệu tập các bên tham dự phiên họp giải
quyết vụ tranh chấp phải gửi cho các bên chậm nhất ba mươi ngày trước ngày mở
phiên họp, nếu các bên không có thoả thuận khác.
3. Phiên họp giải quyết vụ tranh chấp không công
khai. Trong trường hợp có sự đồng ý của các bên, Hội đồng Trọng tài có thể cho
phép những người khác tham dự phiên họp.
Điều 39. Tham dự phiên họp giải quyết vụ tranh chấp
Các bên có thể trực tiếp hoặc uỷ quyền cho người
đại diện tham dự phiên họp giải quyết vụ tranh chấp. Các bên có quyền mời nhân
chứng, luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Điều 40. Việc vắng mặt của các bên
1. Nguyên đơn đã được triệu tập tham dự phiên họp
giải quyết vụ tranh chấp mà không tham dự phiên họp không có lý do chính đáng
hoặc bỏ phiên họp mà không được Hội đồng Trọng tài đồng ý thì được coi là đã
rút đơn kiện. Trong trường hợp này, Hội đồng Trọng tài tiếp tục giải quyết vụ
tranh chấp nếu bị đơn yêu cầu hoặc có đơn kiện lại theo quy định tại Điều 29
của Pháp lệnh này.
Bị đơn đã được triệu tập tham dự phiên họp giải
quyết vụ tranh chấp mà không tham dự phiên họp không có lý do chính đáng hoặc
bỏ phiên họp mà không được Hội đồng Trọng tài đồng ý thì Hội đồng Trọng tài vẫn
tiến hành giải quyết vụ tranh chấp căn cứ vào tài liệu và chứng cứ hiện có.
2. Trong trường hợp các bên yêu cầu, Hội đồng
Trọng tài có thể căn cứ vào hồ sơ để giải quyết vụ tranh chấp mà không cần các
bên có mặt.
Điều 41. Hoãn phiên họp giải quyết vụ tranh chấp
1. Trường hợp có lý do chính đáng, các bên có thể
yêu cầu Hội đồng Trọng tài hoãn phiên họp giải quyết vụ tranh chấp.
2. Hội đồng Trọng tài phải hoãn phiên họp giải
quyết vụ tranh chấp nếu xét thấy chưa đủ cơ sở để giải quyết vụ tranh chấp.
Điều 42. Nguyên tắc ra quyết định trọng tài
Quyết định trọng tài của Hội đồng Trọng tài được
lập theo nguyên tắc đa số, trừ trường hợp vụ tranh chấp do Trọng tài viên duy
nhất giải quyết. Ý kiến của thiểu số được ghi vào biên bản phiên họp.
Điều 43. Biên bản phiên họp giải quyết vụ tranh chấp
1. Biên bản phiên họp giải quyết vụ tranh chấp do
Hội đồng Trọng tài lập, có chữ ký của Chủ tịch Hội đồng Trọng tài.
2. Các bên có quyền tìm hiểu nội dung biên bản,
yêu cầu sửa chữa, bổ sung biên bản. Trong trường hợp không chấp nhận yêu cầu
sửa chữa, bổ sung của các bên, Hội đồng Trọng tài phải ghi vào biên bản.
Điều 44. Quyết định trọng tài
1. Quyết định trọng tài phải có các nội dung chủ
yếu sau đây:
A) Ngày, tháng, năm và địa điểm ra quyết định
trọng tài; trong trường hợp việc giải quyết vụ tranh chấp do Trung tâm Trọng
tài tổ chức thì quyết định trọng tài phải có tên Trung tâm Trọng tài;
B) Tên, địa chỉ của nguyên đơn và bị đơn;
C) Họ, tên các Trọng tài viên hoặc Trọng tài viên
duy nhất;
D) Tóm tắt đơn kiện và các vấn đề tranh chấp;
Đ) Cơ sở để ra quyết định trọng tài;
E) Quyết định về vụ tranh chấp; quyết định về phí
trọng tài và các chi phí khác;
G) Thời hạn thi hành quyết định trọng tài;
H) Chữ ký của các Trọng tài viên hoặc Trọng tài
viên duy nhất.
2. Trường hợp có Trọng tài viên không ký vào
quyết định trọng tài, Chủ tịch Hội đồng Trọng tài phải ghi việc này trong quyết
định trọng tài và nêu rõ lý do.
3. Các bên có quyền yêu cầu Hội đồng Trọng tài
không đưa các vấn đề tranh chấp, cơ sở của các quyết định về vụ tranh chấp vào
quyết định trọng tài.
4. Quyết định trọng tài có hiệu lực kể từ ngày
công bố.
Điều 45. Công bố quyết định trọng tài
1. Quyết định trọng tài có thể được công bố ngay
tại phiên họp cuối cùng hoặc sau đó, nhưng chậm nhất là sáu mươi ngày, kể từ
ngày kết thúc phiên họp cuối cùng. Toàn văn quyết định trọng tài phải được gửi
cho các bên ngay sau ngày công bố.
2. Theo yêu cầu của các bên, Trung tâm Trọng tài
hoặc Hội đồng Trọng tài do các bên thành lập cấp cho bên có yêu cầu bản sao
quyết định trọng tài.
Điều 46. Sửa chữa quyết định trọng tài
1. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận
được quyết định trọng tài, một bên có thể yêu cầu Hội đồng Trọng tài sửa chữa
những lỗi về tính toán, lỗi đánh máy, lỗi in hoặc những lỗi kỹ thuật khác.
Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu, Hội đồng Trọng
tài tiến hành sửa chữa và phải thông báo cho bên kia.
2. Quyết định sửa chữa là một phần của quyết định
trọng tài và phải được Hội đồng Trọng tài ký.
Điều 47. Đình chỉ giải quyết vụ tranh chấp
Hội đồng Trọng tài đình chỉ giải quyết vụ tranh
chấp trong các trường hợp sau đây:
1. Nguyên đơn rút đơn kiện hoặc được coi là đã rút
đơn kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 40 của Pháp lệnh này, trừ trường hợp bị
đơn yêu cầu tiếp tục giải quyết vụ tranh chấp;
2. Các bên thoả thuận chấm dứt việc giải quyết vụ
tranh chấp.
Điều 48. Lưu trữ hồ sơ trọng tài
1. Đối với việc giải quyết vụ tranh chấp do Trung
tâm Trọng tài tổ chức, hồ sơ, quyết định trọng tài, biên bản hoà giải được lưu
trữ tại Trung tâm Trọng tài.
2. Đối với việc giải quyết vụ tranh chấp tại Hội
đồng Trọng tài do các bên thành lập, trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày công
bố quyết định trọng tài hoặc biên bản hoà giải, Hội đồng Trọng tài phải gửi
quyết định trọng tài, biên bản hoà giải kèm theo hồ sơ giải quyết vụ tranh chấp
cho Toà án cấp tỉnh nơi Hội đồng Trọng tài ra quyết định trọng tài hoặc lập
biên bản hoà giải để lưu trữ.
Điều 49. Giải quyết vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài
bằng trọng tài
1. Vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài theo thoả
thuận của các bên, có thể giải quyết tại Hội đồng Trọng tài do Trung tâm Trọng
tài tổ chức hoặc tại Hội đồng Trọng tài do các bên thành lập theo quy định của
Pháp lệnh này.
2. Hội đồng Trọng tài do Trung tâm Trọng tài tổ
chức hoặc Hội đồng Trọng tài do các bên thành lập được áp dụng các quy tắc tố
tụng khác, nếu các bên có thoả thuận.
3. Trọng tài viên do các bên chọn hoặc do Toà án
chỉ định có thể là Trọng tài viên có tên trong danh sách hoặc ngoài danh sách
Trọng tài viên của các Trung tâm Trọng tài của Việt Nam hoặc là Trọng tài viên
nước ngoài theo quy định của pháp luật về trọng tài nước đó.
4. Trong trường hợp một bên hoặc các bên yêu cầu
Toà án nước ngoài chỉ định Trọng tài viên thì Toà án có thẩm quyền chỉ định
Trọng tài viên là Toà án được xác định theo quy định của pháp luật nước đó.
5. Các bên có quyền thoả thuận lựa chọn pháp luật
theo quy định tại khoản 2 Điều 7 của Pháp lệnh này, tập quán thương mại quốc tế
để giải quyết vụ tranh chấp.
6. Các bên có quyền thoả thuận địa điểm giải
quyết vụ tranh chấp tại Việt Nam hoặc tại nước ngoài; nếu không thoả thuận được
thì Hội đồng Trọng tài quyết định, nhưng phải bảo đảm thuận tiện cho các bên
trong việc giải quyết.
7. Các bên có quyền thoả thuận về sử dụng ngôn
ngữ trong tố tụng trọng tài, nếu các bên không có thoả thuận thì ngôn ngữ dùng
trong tố tụng trọng tài là tiếng Việt.
CHƯƠNG VI
HUỶ QUYẾT ĐỊNH TRỌNG TÀI,
THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH TRỌNG TÀI
HUỶ QUYẾT ĐỊNH TRỌNG TÀI,
THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH TRỌNG TÀI
Điều 50. Quyền yêu cầu huỷ quyết định trọng tài
Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được
quyết định trọng tài, nếu có bên không đồng ý với quyết định trọng tài thì có
quyền làm đơn gửi Toà án cấp tỉnh nơi Hội đồng Trọng tài ra quyết định trọng
tài, để yêu cầu huỷ quyết định trọng tài.
Trường hợp gửi đơn quá hạn vì có sự kiện bất khả
kháng thì thời gian có sự kiện bất khả kháng không tính vào thời hạn yêu cầu
huỷ quyết định trọng tài.
Điều 51. Đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài
1. Đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài phải có
các nội dung chủ yếu sau đây:
A) Ngày, tháng, năm viết đơn;
B) Tên và địa chỉ của bên có yêu cầu huỷ quyết
định trọng tài;
C) Lý do yêu cầu huỷ quyết định trọng tài.
2. Kèm theo đơn yêu cầu phải có các giấy tờ sau
đây:
A) Bản chính hoặc bản sao
quyết định trọng tài đã được chứng thực hợp lệ;
B) Bản chính hoặc bản sao
thoả thuận trọng tài đã được chứng thực hợp lệ.
3. Giấy tờ kèm theo đơn yêu cầu bằng tiếng nước
ngoài phải được dịch ra tiếng Việt và bản dịch phải được chứng thực hợp lệ.
Điều 52. Thụ lý hồ sơ
1. Sau khi nhận đủ các giấy tờ quy định tại Điều
51 của Pháp lệnh này, Toà án thông báo ngay cho bên yêu cầu phải nộp lệ phí.
Toà án thụ lý kể từ ngày bên có yêu cầu nộp lệ
phí.
2. Toà án có quyền yêu cầu bên nộp đơn giải thích
những điều chưa rõ trong đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài.
Điều 53. Toà án xét đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài
1.
Sau khi thụ lý đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài, Toà án phải thông báo cho
Trung tâm Trọng tài hoặc Hội đồng Trọng tài do các bên thành lập, các bên tranh
chấp và Viện kiểm sát cùng cấp. Trong trường hợp vụ tranh chấp do Trung tâm
Trọng tài tổ chức giải quyết thì trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày
nhận được thông báo của Toà án, Trung tâm Trọng tài phải chuyển hồ sơ cho Toà
án.
2.
Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày thụ lý, Chánh án Toà án chỉ định một
Hội đồng xét xử gồm ba Thẩm phán, trong đó có một Thẩm phán làm chủ toạ và phải
mở phiên toà để xét đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài.
Toà
án phải chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn bảy ngày làm
việc, trước ngày mở phiên toà.
3.
Phiên toà được tiến hành với sự có mặt của các bên tranh chấp, luật sư của các
bên (nếu có), Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp. Trường hợp một trong các
bên yêu cầu Toà án xét đơn vắng mặt hoặc đã được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt
không có lý do chính đáng hoặc bỏ phiên họp mà không được Hội đồng xét xử đồng
ý thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài.
4.
Khi xét đơn yêu cầu, Hội đồng xét xử không xét lại nội dung vụ tranh chấp mà
chỉ kiểm tra giấy tờ theo quy định tại Điều
51 của Pháp lệnh này, đối chiếu quyết định trọng tài với những quy định tại
Điều 54 của Pháp lệnh này để ra quyết định.
5. Sau khi xem xét đơn, giấy tờ kèm theo, chứng cứ (nếu
có), nghe ý kiến
của những người được triệu tập, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử thảo
luận và quyết định theo đa số.
Hội
đồng xét xử có quyền ra quyết định huỷ hoặc không huỷ quyết định trọng tài;
đình chỉ việc xét đơn yêu cầu, nếu người nộp đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng
tài rút đơn hoặc đã được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt không có lý do chính đáng
hoặc bỏ phiên họp mà không được Hội đồng xét xử đồng ý.
Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày ra quyết
định, Toà án phải gửi bản sao quyết định cho
các bên, Trung tâm Trọng tài hoặc Hội đồng Trọng tài do các bên thành lập và
Viện kiểm sát cùng cấp.
6. Trong trường hợp Hội đồng xét xử huỷ quyết
định trọng tài, nếu không có thoả thuận khác thì các bên có quyền đưa vụ tranh
chấp đó ra giải quyết tại Toà án.
7. Trong trường hợp Hội đồng xét xử không huỷ
quyết định trọng tài thì quyết định trọng tài được thi hành theo quy định tại
Điều 57 của Pháp lệnh này.
Điều 54. Căn cứ để huỷ quyết định trọng tài
Toà án ra quyết định huỷ quyết định trọng tài nếu
bên yêu cầu chứng minh được rằng Hội đồng Trọng tài đã ra quyết định trọng tài
thuộc một trong các trường hợp sau đây:
1. Không có thoả thuận trọng tài;
2. Thoả thuận trọng tài vô
hiệu theo quy định tại Điều 10 của Pháp lệnh này;
3. Thành phần Hội đồng Trọng tài, tố tụng trọng
tài không phù hợp với thoả thuận của các bên theo quy định của Pháp lệnh này;
4. Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội
đồng Trọng tài; trong trường hợp quyết định trọng tài có một phần không thuộc
thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài thì phần quyết định này bị huỷ;
5. Bên yêu cầu chứng minh được trong quá trình
giải quyết vụ tranh chấp có Trọng tài viên vi
phạm nghĩa vụ của Trọng tài viên quy định tại khoản 2 Điều 13 của Pháp
lệnh này;
6. Quyết định trọng tài trái với lợi ích công
cộng của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Điều 55. Kháng cáo, kháng nghị quyết định của Toà án
1. Trong thời hạn mười lăm
ngày, kể từ ngày Toà án ra quyết định theo quy định tại Điều 53 của Pháp lệnh
này, các bên có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát nhân
dân tối cao có quyền kháng nghị quyết định của Toà án. Thời hạn kháng nghị của
Viện kiểm sát cùng cấp là mười lăm ngày, của Viện kiểm sát nhân dân tối cao là
ba mươi ngày, kể từ ngày Toà án ra quyết định.
Đơn kháng cáo, quyết định kháng nghị phải nêu rõ
lý do và yêu cầu của kháng cáo, kháng nghị. Đơn kháng cáo, quyết định kháng
nghị phải gửi cho Toà án đã ra quyết định. Sau khi nhận được đơn kháng cáo, Toà
án thông báo ngay cho bên kháng cáo nộp lệ phí kháng cáo.
2. Trong trường hợp có bên không có mặt tại phiên
toà sơ thẩm thì thời hạn kháng cáo quy định tại khoản 1 Điều này được tính từ
ngày bản sao quyết định được giao cho bên vắng mặt; nếu kháng cáo quá hạn vì có
sự kiện bất khả kháng, thì thời hạn được tính từ ngày không còn sự kiện bất khả
kháng.
Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận
được quyết định kháng nghị hoặc nhận đơn kháng cáo và người kháng cáo đã nộp lệ
phí kháng cáo, Toà án đã ra quyết định phải chuyển hồ sơ lên Toà án nhân dân
tối cao.
Điều 56. Xét kháng cáo, kháng nghị
1. Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận
được hồ sơ kháng cáo hoặc quyết định kháng nghị, Toà án nhân dân tối cao phải
mở phiên toà xem xét, quyết định. Nếu cần phải yêu cầu người kháng cáo, kháng
nghị giải thích những nội dung kháng cáo, kháng nghị thì thời hạn mở phiên toà được kéo dài thêm nhưng không quá sáu mươi ngày,
kể từ ngày nhận được hồ sơ kháng cáo, kháng nghị.
Toà án phải chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát cùng
cấp trong thời hạn bảy ngày làm việc trước ngày mở phiên toà.
2. Thành phần Hội đồng xét kháng cáo, kháng nghị
gồm ba Thẩm phán, trong đó có một Thẩm phán làm chủ tọa do Toà án nhân dân tối
cao chỉ định.
Phiên toà được tiến hành với sự có mặt của các
bên tranh chấp, luật sư của các bên (nếu có), Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng
cấp.
Trong trường hợp bên không kháng cáo yêu cầu Toà
án xử vắng mặt hoặc đã được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt không có lý do chính
đáng hoặc bỏ phiên họp mà không được Hội đồng xét xử đồng ý thì Hội đồng xét xử
vẫn tiến hành xét xử.
Sau khi xem xét đơn kháng cáo, quyết định kháng
nghị, tài liệu kèm theo, chứng cứ (nếu có), nghe ý kiến của các bên được triệu
tập, của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử thảo luận và quyết định theo đa số.
Hội đồng xét xử có quyền giữ nguyên, sửa một phần
hoặc toàn bộ quyết định của Toà án cấp sơ
thẩm; đình chỉ việc xét kháng cáo trong trường hợp Viện kiểm sát rút
quyết định kháng nghị, bên kháng cáo rút
kháng cáo hoặc đã được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt không có lý do chính
đáng hoặc bỏ phiên họp mà không được Hội đồng xét xử đồng ý.
Quyết định của Toà án nhân dân tối cao là quyết
định cuối cùng và có hiệu lực thi hành.
Điều 57. Thi hành quyết định trọng tài
1. Sau thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày hết thời
hạn thi hành quyết định trọng tài, nếu một bên không tự nguyện thi hành, cũng
không yêu cầu huỷ theo quy định tại Điều 50 của Pháp lệnh này, bên được thi
hành quyết định trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án cấp tỉnh
nơi có trụ sở, nơi cư trú hoặc nơi có tài sản của bên phải thi hành, thi hành
quyết định trọng tài.
2. Trong trường hợp một trong các bên có yêu cầu
Toà án huỷ quyết định trọng tài thì quyết định trọng tài được thi hành kể từ
ngày quyết định của Toà án không huỷ quyết định trọng tài có hiệu lực.
3.Trình tự, thủ tục và thời hạn thi hành quyết
định trọng tài theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
Điều 58. Lệ phí toà án liên quan đến trọng tài
Lệ phí về yêu cầu Toà án chỉ định Trọng tài viên,
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, yêu cầu huỷ quyết định trọng tài, kháng
cáo quyết định của Toà án và những lệ phí khác do Chính phủ quy định.
CHƯƠNG VII
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TRỌNG TÀI
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TRỌNG TÀI
Điều 59. Nội dung quản lý nhà nước về trọng tài
1. Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về
trọng tài.
2. Hướng dẫn thi hành các văn bản quy phạm pháp
luật về trọng tài.
3. Cấp, thu hồi giấy phép thành lập và giấy đăng
ký hoạt động của Trung tâm Trọng tài.
4. Tổ chức, hướng dẫn việc đào tạo, bồi dưỡng và
xây dựng đội ngũ Trọng tài viên; hợp tác quốc tế trong lĩnh vực trọng tài.
5. Kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử
lý vi phạm pháp luật về trọng tài.
Điều 60. Cơ quan quản lý nhà nước về trọng tài
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về trọng
tài.
2. Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về trọng tài.
3. Bộ Tư pháp phối hợp với Hội Luật gia Việt Nam
trong việc quản lý nhà nước về trọng tài.
CHƯƠNG VIII
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 61. Áp dụng Pháp lệnh đối với các tổ chức trọng tài
được thành lập trước ngày Pháp lệnh này có hiệu lực.
1. Các Trung tâm Trọng tài được thành lập trước
ngày Pháp lệnh này có hiệu lực không phải làm thủ tục thành lập lại. Các Trung
tâm này phải sửa đổi, bổ sung Điều lệ, Quy tắc tố tụng trọng tài cho phù hợp
với quy định của Pháp lệnh này trong thời hạn mười hai tháng, kể từ ngày Pháp
lệnh này có hiệu lực. Hết thời hạn này mà các Trung tâm không sửa đổi, bổ sung
Điều lệ và Quy tắc tố tụng thì phải chấm dứt hoạt động.
2. Các thoả thuận trọng tài được ký kết trước
ngày Pháp lệnh này có hiệu lực được thực hiện theo các quy định của pháp luật
có hiệu lực tại thời điểm ký thoả thuận trọng tài.
3. Các quyết định trọng tài của các Trung tâm
Trọng tài được thành lập và hoạt động theo Nghị định số 116/CP ngày 5 tháng 9
năm 1994 của Chính phủ, các quyết định trọng tài của Trung tâm Trọng tài quốc
tế Việt Nam được thành lập và hoạt động theo Quyết định số 204/TTg ngày 28
tháng 4 năm 1993 và Quyết định số 114/TTg ngày 16 tháng 2 năm 1996 của Thủ
tướng Chính phủ nếu chưa thi hành thì được thi hành theo quy định tại Điều 6 và
Điều 57 của Pháp lệnh này.
Điều 62. Hiệu lực thi hành
1. Pháp lệnh này có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng
7 năm 2003.
2. Các văn bản quy phạm pháp luật sau đây hết
hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2003:
A) Nghị định số 116/CP ngày 5 tháng 9 năm1994 của
Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Trọng tài kinh tế;
B) Quyết định số 204/TTg ngày 28 tháng 4 năm 1993
của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam;
C) Quyết định số 114/TTg ngày 16 tháng 2 năm 1996
của Thủ tướng Chính phủ về mở rộng thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của
Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam.
Điều 63. Điều khoản thi hành
Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành Pháp lệnh này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
cảm ơn bạn đã đóng góp cho BLOG ngày càng hoàn thiện!